Đối ngoại quốc phòng sau Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX): Thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ xa
Vừa qua, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã có bài viết trên Tạp chí Cộng sản, nêu bật những kết quả chủ yếu của hoạt động đối ngoại quốc phòng thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Báo Quân đội nhân dân xin đăng bài viết; đầu đề và các đề mục nhỏ do Báo Quân đội nhân dân đặt.
Thách thức to lớn trong thực hiện Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc
Là một bộ phận quan trọng trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đối ngoại quốc phòng vừa là thành tố của nền quốc phòng toàn dân vừa là cầu nối gắn liền giữa đối ngoại với quốc phòng. Về bản chất, đối ngoại quốc phòng là cách ứng xử với bên ngoài nhằm thực hiện tốt công cuộc phòng thủ đất nước từ bên trong, thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ xa, củng cố sức mạnh quốc phòng từ thời bình nhằm thực hiện các mục tiêu phòng thủ đất nước.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định đối ngoại quốc phòng là một trong các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quan trọng của đất nước(*). Quan điểm đó của Đảng cho thấy đối ngoại quốc phòng đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của công cuộc phòng thủ đất nước, là công cụ đắc lực để thực hiện các mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong thời bình.
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh (ngồi giữa) dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN lần thứ 7 (ADMM-7) tại Bru-nây. Ảnh: Quân Thủy. |
Chính vì vậy, mười năm qua, kể từ khi Hội nghị Trung ương Đảng khóa IX lần thứ 8 đề ra những định hướng lớn về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, công tác đối ngoại quốc phòng đã phát triển mạnh mẽ nhằm thực hiện chiến lược quốc phòng tối ưu và cũng là tư tưởng xuyên suốt của Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đồng thời giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.
Mười năm qua, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường trong khi đất nước ngày càng hội nhập sâu vào khu vực và thế giới. Tình hình đó đã tạo nên sự đan xen hết sức phức tạp trong quan hệ quốc tế, giữa đối tượng và đối tác của quốc phòng Việt Nam nói chung, của công tác đối ngoại quốc phòng nói riêng.
Có thể nói, chưa khi nào sự đan xen này lại phức tạp như thời gian vừa qua, tạo ra những thách thức to lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ của Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc. Vừa phải bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, vừa giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và duy trì tình hữu nghị với các nước; vừa tăng cường hội nhập quốc tế đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước; giải quyết mâu thuẫn trong xử lý quan hệ với các nước lớn trong điều kiện châu Á – Thái Bình Dương trở thành trọng tâm cạnh tranh chiến lược của tất cả các cường quốc thế giới.
Với đối ngoại quốc phòng, các thách thức này lại càng phức tạp hơn do hợp tác quốc phòng là lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm. Những mâu thuẫn, thách thức lớn đó đòi hỏi đối ngoại quốc phòng phải được định hướng đúng và có phương pháp thực hiện hiệu quả mới hoàn thành được các nhiệm vụ trong Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc.
Vì vậy, mười năm qua, đối ngoại quốc phòng đã quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo các phương châm, nguyên tắc, định hướng cơ bản của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc mà Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đề ra và đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Hợp tác quốc phòng tiến hành đồng bộ với hội nhập quốc tế
Công tác đối ngoại quốc phòng đã quán triệt và vận dụng nhuần nhuyễn các quan điểm được nêu trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Nhờ xác định đúng đối tượng, đối tác, đối ngoại quốc phòng đã thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong quá trình mở rộng và đưa các mối quan hệ quốc phòng đi vào chiều sâu theo tinh thần tích cực, chủ động hội nhập quốc tế của Đảng.
Chúng ta đã quán triệt các phương châm, nguyên tắc của Đảng trong hợp tác quốc tế, thực hiện nhất quán chủ trương vừa tăng cường hợp tác vừa đấu tranh chuyển hóa đối tượng thành đối tác. Qua hợp tác và đấu tranh, chúng ta đã tăng cường được hiệu quả hợp tác, giải quyết được nhiều bất đồng, tăng sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau trong nhiều mối quan hệ quốc phòng quan trọng, nhất là với các nước láng giềng, với các cường quốc và bạn bè truyền thống.
Vì vậy, mười năm qua cho thấy sự đan xen giữa đối tượng, đối tác không ngăn cản được sự phát triển mà còn thúc đẩy sự phát triển của đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng.
Đối ngoại quốc phòng đã quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo sáu quan điểm cơ bản của Đảng trong Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc vào thực tiễn hoạt động, luôn phục tùng sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Bộ Quốc phòng đã chủ động tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương và Chính phủ về các chủ trương và định hướng lớn về công tác đối ngoại có liên quan đến quốc phòng; các vấn đề liên quan giữa hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng với hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác nhằm kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong một thể thống nhất của Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc.
Hợp tác quốc phòng trong những năm qua đã được tiến hành đồng bộ với hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, góp phần tạo dựng lòng tin với các nước trong khu vực và thế giới, thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đối ngoại quốc phòng đã đáp ứng được các yêu cầu hợp tác quốc phòng – an ninh ngày càng cao và đa dạng trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Hoạt động đối ngoại quốc phòng đã chú trọng đến các biện pháp tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam với các đối tác.
Đối thoại quốc phòng ở nhiều cấp, trong đó đối thoại quốc phòng cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng thường niên giữa Việt Nam với các cường quốc đã được thiết lập, tạo điều kiện để Việt Nam trao đổi những vấn đề về chiến lược, tăng cường hợp tác, giải quyết bất đồng, làm cho quan hệ giữa nước ta với nhiều nước ngày càng chủ động, tin cậy hơn.
Bộ Quốc phòng cũng đã công bố Sách trắng quốc phòng Việt Nam 2009, thực hiện minh bạch hóa về quốc phòng nhằm tạo niềm tin trong quan hệ quốc tế. Những hoạt động của đối ngoại quốc phòng đã tăng cường vị thế của đất nước và quân đội trong khu vực và trên trường quốc tế.
Thành công đó đã góp phần hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác phát triển, có lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ xây dựng đất nước.
Đối ngoại quốc phòng cũng đã trực tiếp giải quyết các nhu cầu hợp tác quốc phòng trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, góp phần bảo vệ an ninh biên giới và trong các vấn đề an ninh phi truyền thống như khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, cứu hộ, cứu nạn, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh… đã đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu của quá trình hội nhập quốc tế của đất nước trên các lĩnh vực khác.
Hợp tác quốc phòng cũng trực tiếp tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các đơn vị kinh tế và công nghiệp quốc phòng của quân đội đã tích cực nắm bắt các cơ hội hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển năng lực sản xuất, trở thành những đơn vị đi tiên phong trong kết hợp kinh tế với quốc phòng, vừa bảo đảm các nhu cầu quốc phòng vừa trực tiếp đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tham gia bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, bảo vệ chế độ XHCN ở Việt Nam
Thực hiện các mục tiêu của Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc mà Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa IX) đề ra, đối ngoại quốc phòng đã tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Những diễn biến phức tạp của tình hình an ninh khu vực và thế giới đã tác động lớn đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia, đặt ra cho đối ngoại quốc phòng nhiều nhiệm vụ khó khăn.
Các Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN tham dự ADMM-7. Ảnh: mod.gov.vn. |
Một mặt, đối ngoại quốc phòng phải tham gia xây dựng thế trận quốc phòng nhằm thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định trong khu vực, tạo điều kiện để giải quyết hòa bình các vấn đề tranh chấp, bất đồng trên cơ sở của luật pháp quốc tế.
Đây là phương cách duy nhất để vừa bảo vệ được chủ quyền, lãnh thổ vừa giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Chúng ta đã xây dựng được các cơ chế hợp tác quốc phòng song phương với các nước có chung biên giới như thiết lập các cơ chế bảo vệ an ninh biên giới, tiến hành tuần tra chung, lập đường dây nóng với hải quân các nước…
Các cơ chế này tạo điều kiện để giải quyết các vụ việc phát sinh, không để các va chạm vượt ra ngoài tầm kiểm soát, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định và quan hệ hữu nghị giữa các nước.
Mặt khác, đối ngoại quốc phòng đã kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh trên thực địa của các lực lượng để đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Trong khi đấu tranh không khoan nhượng với mọi hành động xâm phạm chủ quyền và các lợi ích quốc gia của Việt Nam, chúng ta vẫn chú trọng hợp tác để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn, thông qua hợp tác để tác động, đấu tranh nhằm hạn chế các hoạt động xâm phạm chủ quyền của nước ta.
Để bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân và chế độ chính trị ở nước ta, công tác đối ngoại quốc phòng đã góp phần quan trọng trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch.
Chúng ta đã chú trọng các hoạt động đối thoại, giao lưu, tuyên truyền đối ngoại làm cho dư luận, nhân dân, quân đội các nước trong khu vực và trên thế giới thấy rõ hơn đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa và những vấn đề liên quan đến chính sách quốc phòng Việt Nam.
Từ các hoạt động tích cực đó, đối ngoại quốc phòng đã góp phần vô hiệu hóa các luận điệu tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch.
Trong hợp tác với các nước, công tác đối ngoại quốc phòng thường xuyên quan tâm đấu tranh có hiệu quả đối với âm mưu lợi dụng hợp tác để tuyên truyền các tư tưởng thù địch, nhất là âm mưu nhằm phi chính trị hóa quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng.
Quan hệ đối ngoại quốc phòng càng phát triển, công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong các hoạt động đối ngoại quốc phòng ngày càng được chú trọng đã góp phần ngăn chặn mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, nhất là các thủ đoạn tạo “tự diễn biến” trong nội bộ quân đội.
Tích cực xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
Đối ngoại quốc phòng đã góp phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị-xã hội và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước mà Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đề ra.
Bằng các hoạt động thực tế kết hợp với tuyên truyền trên các phương tiện thông tin trong nước, công tác đối ngoại quốc phòng đã thiết thực góp phần làm cho nhân dân ta hiểu sâu sắc hơn về đường lối và chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước, hoạt động của quân đội nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và môi trường hòa bình, hợp tác phát triển của đất nước.
Nhờ các hoạt động đó, lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo, đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước được nâng cao. Các hoạt động đó góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào khả năng quốc phòng của đất nước, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Những nhân tố này là cơ sở để giữ vững ổn định chính trị của đất nước, xây dựng mối đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực hiện chủ trương ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài để tăng cường sức mạnh quốc phòng của Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, đối ngoại quốc phòng đã tích cực góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại cả về con người và cơ sở vật chất.
Hợp tác quốc phòng trong đào tạo và huấn luyện giữa quân đội với các đối tác nước ngoài đã được tăng cường trên nhiều mặt. Chúng ta đã cử nhiều cán bộ ưu tú đi đào tạo cơ bản ở nước ngoài về các ngành chuyên môn, kỹ thuật cao. Cán bộ quân đội cũng đã tham gia nhiều hội nghị, hội thảo và các hoạt động hợp tác khoa học quốc tế, qua đó cán bộ quân đội ta được tôi luyện về bản lĩnh chính trị, tiếp thu được kiến thức khoa học, kỹ thuật quân sự hiện đại của thế giới để phục vụ cho công cuộc hiện đại hóa quân đội. Nhiều cán bộ quân đội được đào tạo ở các trường quân sự nước ngoài đã trở thành các cán bộ chủ chốt của quân đội, nhất là ở những đơn vị sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Hoạt động thực tiễn sinh động, đa dạng, phong phú với nhiều thử thách không kém phần cam go của công tác đối ngoại quốc phòng cũng đã rèn luyện cho quân đội ta một đội ngũ cán bộ ngày càng am hiểu hơn về chiến tranh hiện đại cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta học hỏi những tinh hoa của nghệ thuật quân sự thế giới nhằm hiện đại hóa nền quốc phòng Việt Nam.
Hợp tác công nghiệp quốc phòng và thương mại quốc phòng mười năm qua đã có những phát triển tích cực. Nhờ có các cơ chế hợp tác phù hợp, chúng ta đã tranh thủ được các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến… từ bên ngoài để phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng từng bước tự chủ bảo đảm trang bị, vũ khí, khí tài hiện đại cho quân đội, phù hợp với phương thức chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam.
Đa dạng hóa quan hệ thương mại quốc phòng đã nâng cao khả năng lựa chọn các trang thiết bị, vũ khí của nước ngoài đáp ứng được nhu cầu hiện đại hóa quân đội.
Song phương mở rộng, đa phương tích cực
Thực hiện các định hướng về công tác đối ngoại đã được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nêu ra, mười năm qua, đối ngoại quốc phòng đã phát triển vượt bậc. Quan hệ hợp tác song phương được mở rộng.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với 80 nước, đặt cơ quan tùy viên quốc phòng tại 31 nước, có 45 nước đặt cơ quan tùy viên quốc phòng tại Việt Nam, mở rộng đáng kể so với trước khi có Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc (trước đó ta có quan hệ quốc phòng với 60 nước, đặt cơ quan tùy viên quốc phòng tại 25 nước; 34 nước lập cơ quan tùy viên quốc phòng tại Việt Nam).
Quan hệ quốc phòng không chỉ được mở rộng mà còn đi vào chiều sâu. Trong 10 năm (2003-2012), số văn bản thỏa thuận quốc tế về quốc phòng Việt Nam ký với các nước tăng gấp 4 lần so với thời gian từ năm 1945 đến năm 2002.
Chúng ta đã chú trọng phát triển các mối quan hệ quốc phòng mang tính chiến lược. Dựa trên cơ sở tình hữu nghị truyền thống, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, hợp tác đáp ứng nhu cầu bảo vệ an ninh của mỗi nước, quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam với Lào và Cam-pu-chia đã và đang được đổi mới với nhiều lĩnh vực hợp tác đi vào chiều sâu.
Quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam với các thành viên khác của ASEAN cũng được đẩy mạnh với nhiều lĩnh vực hợp tác hiệu quả. Quan hệ với các cường quốc và trung tâm lớn trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, tạo thế đan xen lợi ích giữa các nước.
Quan hệ quốc phòng với Trung Quốc, cường quốc và là quốc gia láng giềng, đã được phát triển dựa trên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước và đang từng bước thiết lập các cơ chế hợp tác giữ gìn an ninh chung ở biên giới trên bộ cũng như trên biển.
Quan hệ quốc phòng với các đối tác lớn như Nga, Ấn Độ, Mỹ, EU… tiếp tục mở rộng, đáp nhu cầu hợp tác quốc phòng của đất nước. Chúng ta tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển.
Mười năm qua, hợp tác quốc phòng đa phương của Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt về chất. Từ một nước hầu như chưa có quan hệ quốc phòng đáng kể nào với các định chế quốc tế, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của nhiều cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương, là nhân tố quan trọng thúc đẩy hợp tác quốc phòng khu vực.
Chúng ta đã chủ động, tích cực hiện thực hóa sáng kiến Hội nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM ), được các nước đánh giá cao. Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều sáng kiến mới thúc đẩy hợp tác quốc phòng khu vực theo hướng thiết thực, hiệu quả. Chúng ta đã tổ chức thành công Hội nghị cảnh sát biển ASEAN lần đầu tiên; tích cực, chủ động trong hoạt động của đồng chủ trì nhóm chuyên gia về hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa trong cơ chế ADMM .
Sáng kiến của Việt Nam thành lập Nhóm chuyên gia về Hành động mìn nhân đạo đã tạo ra một lĩnh vực hợp tác mới trong cơ chế ADMM . Sáng kiến này thúc đẩy hợp tác quốc phòng trong khu vực, góp phần thiết thực giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh ở đất nước ta cũng như với nhiều nước trong khu vực.
Chúng ta cũng đã chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để có thể tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc trong tương lai gần. Phát triển quan hệ quốc phòng đa phương đã nâng cao uy tín quốc tế, góp phần đáng kể giải quyết các vấn đề an ninh của đất nước.
Quan trọng hơn, các mối quan hệ này đã được kết hợp chặt chẽ với các quan hệ quốc phòng song phương để tạo ra các cơ chế hợp tác an ninh đa dạng, đa tầng, góp phần nâng cao thế và lực của quốc phòng nước ta.
*
* *
Mười năm qua, đối ngoại quốc phòng đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong thực hiện các mục tiêu, phương châm và biện pháp của Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc. Những thành quả này khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thời gian tới, với sức mạnh và những kinh nghiệm đã đạt được, lại được tiếp sức bằng tư duy mới của Đảng về hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng cần vận dụng sáng tạo Nghị quyết số 22-NQTW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế để tiếp tục thực hiện thành công các mục tiêu của Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc mà Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) của Đảng đã đề ra.
(*) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội XI, phần VIII về quốc phòng, an ninh nêu rõ “Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”.
Ý kiến ()