Đổi mới phương thức sản xuất: Cấp thiết ở vùng chè Đình Lập
(LSO) – Từ năm 2015 trở lại đây, sản lượng chè thương phẩm của Công ty Cổ phần Chè Thái Bình Lạng Sơn (huyện Đình lập) xuất khẩu sang Đài Loan và một số nước giảm mạnh. Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc sản xuất kinh doanh của công ty và thu nhập của người trồng chè ở huyện Đình Lập.
Trong nhiều năm qua, chè là một trong những cây trồng chủ lực của huyện Đình Lập. Diện tích trồng chè của huyện khoảng 527 ha, tập trung chủ yếu ở thị trấn Nông trường Thái Bình, xã Lâm Ca và xã Thái Bình. Sản lượng chè búp tươi đạt khoảng 1.500 tấn/năm. Một số sản phẩm chè Ô long, Ngọc Thúy, Bát tiên đã được Công ty Cổ phần Chè Thái Bình Lạng Sơn chế biến, đóng hộp xuất khẩu sang một số nước từ những năm 2002 – 2003.
Tuy nhiên, từ năm 2015 trở lại đây, sản lượng chè xuất khẩu giảm mạnh. Ông Bế Xuân Hồng, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Chè Thái Bình Lạng Sơn cho biết: Trước đây, sản phẩm chè xuất khẩu sang Đài Loan, Trung Quốc đạt trung bình 20 tỷ đồng/năm. Thế nhưng, trong 8 tháng của năm 2019, công ty chưa xuất khẩu được lô hàng nào. Do không xuất khẩu được, giá trị chè thương phẩm cũng giảm mạnh (từ 125 nghìn đồng/kg chè Ô long thương phẩm giảm xuống còn 90 nghìn đồng/kg).
Người dân thị trấn Nông trường Thái Bình thu hoạch chè
Tìm hiểu thực tế việc trồng, chăm sóc, thu hái chè ở địa bàn thị trấn Nông trường Thái Bình và xã Thái Bình, thấy rằng, người trồng chè còn thiếu kiến thức về kỹ thuật sản xuất nên chất lượng sản phẩm thấp và không đồng đều. Đồng thời, việc quy hoạch, thực hiện trồng chè theo tiêu chuẩn VietGAP tại vùng chè này còn chậm. Theo thống kê của UBND huyện Đình Lập, đến nay mới có khoảng 7,75 ha/527 ha chè được trồng theo tiêu chuẩn VietGAP.
Trong khi đó, theo ông Bế Xuân Hồng, hiện nay việc quy định tiêu chuẩn về chất lượng của một số nước đối với các loại nông sản nhập khẩu nói chung, trong đó có sản phẩm chè ngày một khắt khe hơn. Trước khi thực hiện nhập khẩu, các đối tác thường khảo sát thực tế vùng nguyên liệu. Theo đánh giá của họ, quy trình chăm sóc, thu hái của bà con chưa đáp ứng được yêu cầu. Chính điều này khiến họ tạm dừng nhập khẩu chè của công ty.
Việc xuất khẩu chè ở Đình Lập không thuận lợi đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người trồng chè. Chị Mã Thị Hoa, ở khu 5, thị trấn Nông trường Thái Bình cho biết: Vụ chè năm 2019, giá bán chỉ ở mức 8 nghìn đồng/kg chè tươi, giảm 5.000 đồng/kg so với năm 2018. Gia đình tôi có 7 sào chè, với giá bán thấp như vậy, thu nhập chỉ đạt trên 50 triệu đồng/năm, tính toán cặn kẽ thì thu không đủ bù chi.
Không chỉ riêng chị Hoa, theo tính toán của UBND thị trấn Nông trường Thái Bình, thu nhập từ chè trên địa bàn năm 2019 dự kiến đạt gần 8 tỷ đồng (năm 2018 thu nhập được hơn 13 tỷ đồng). Còn đối với xã Lâm Ca, thu nhập từ chè ước đạt 4,5 tỷ đồng (năm 2018 được gần 7,2 tỷ đồng).
Đối với Công ty Cổ phần Chè Thái Bình Lạng Sơn, trước khó khăn trong việc xuất khẩu sản phẩm, công ty cũng đã phải điều chỉnh kế hoạch sản xuất theo hướng giảm. Điều này đồng nghĩa với việc giảm lượng thu mua chè nguyên liệu, khiến cho giá chè nguyên liệu đã giảm sâu mà vẫn khó tiêu thụ.
Ông Hoàng Thanh Đạm, Phó Chủ tịch UBND huyện Đình Lập cho biết: Trước khó khăn về thị trường xuất khẩu, để mở hướng cho cây chè phát triển, huyện đang chỉ đạo các phòng chức năng tập trung hướng dẫn người dân sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP. Đồng thời chú trọng mở rộng thị trường trong nước; tăng cường quảng bá, mời chào sản phẩm chè Ô long, Ngọc thúy, Bát tiên đến doanh nghiệp ở các tỉnh, thành trên cả nước. Hiện nay, một số doanh nghiệp ở Quảng Ninh đã ký kết bao tiêu sản phẩm chè của Đình Lập. Song song với đó, huyện tìm gọi các đối tác ở nước Úc đến tìm hiểu, và có thể thời gian tới sẽ xuất khẩu chè Ô long sang Úc.
Rào cản kỹ thuật ở các quốc gia ngày càng khắt khe với rất nhiều quy định nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm cho người sử dụng. Muốn có thị trường xuất khẩu ổn định và từng bước mở rộng sang các thị trường khác, sản phẩm chè Đình Lập phải vượt qua được các rào cản kỹ thuật này. Để làm được điều đó việc đổi mới phương thức sản xuất từ trồng, chăm sóc, thu hoạch đến bảo quản, chế biến, đóng gói là điều bắt buộc. Hy vọng rằng cùng với việc mở rộng thị trường trong nước, vùng chè Đình Lập sẽ sớm có những điều chỉnh phù hợp, toàn diện để có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật ấy, tiếp tục xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước, nâng cao giá trị sản phẩm.
Cần triển khai đồng bộ các giải pháp để phát triển bền vững vùng chè
(LSO) – Muốn phát triển vùng chè một cách bền vững rất cần sự vào cuộc từ nhiều phía như: chính quyền, người dân và cả doanh nghiệp.
Ông Đỗ Đức Định, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Nông trường Thái Bình: “Cần có quy hoạch tổng thể về phát triển cây chè”.
Thị trấn Nông trường Thái Bình có khoảng 150 ha chè, trong đó Công ty Cổ phần Chè Thái Bình có khoảng 40 ha, còn lại là của người dân. Về cơ cấu giống thì chè trung du có khoảng 64,2 ha và chè giống mới gồm Ô Long, Ngọc Thúy, Bát tiên là 84,8 ha. Nhưng từ nhiều năm nay việc phát triển vùng chè trên địa bàn thị trấn mang nặng tính tự phát, mạnh ai người ấy làm, việc chăm sóc thu hái chè vẫn theo phương pháp truyền thống, chất lượng chè chưa cao. Để phát triển cây chè chất lượng cao sử dụng các loại chè giống mới phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, thì thời gian tới, các cấp, ngành cần có quy hoạch tổng thể trong phát triển cây chè và hướng dẫn, vận động người dân tập trung sản xuất theo hướng sản xuất an toàn để nâng giá trị sản phẩm.
Ông Đỗ Văn Nam, chủ cơ sở thu mua chế biến chè Đồng Thuộc khu Đoàn Kết, thị trấn Nông trường Thái Bình: “Cần đổi mới phương thức sản xuất”.
Hiện cơ sở đang thu mua chè tươi cả giống trung du và giống mới của bà con tại các xã: Thái Bình, Lâm Ca và thị trấn Nông trường Thái Bình với sản lượng khoảng 2 tấn/ngày. Từ nguồn nguyên liệu này, cơ sở sẽ phân loại và sao sấy khô rồi đưa ra thị trường tiêu thụ. Nhưng muốn sản xuất chè phục vụ xuất khẩu đối với cơ sở lại là vấn đề vô cùng khó khăn bởi thị trường quốc tế yêu cầu rất khắt khe về chất lượng. Muốn làm được việc này, người trồng chè cần phải đổi mới phương thức sản xuất để nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, từ trồng, chăm sóc, thu hái, đến bảo quản.
Về tiêu thụ và phát triển thương hiệu những cơ sở sản xuất như chúng tôi sẽ có trách nhiệm trong việc tìm kiếm mở rộng thị trường để tiêu thụ chè cho bà con. Có như vậy mới mong từng bước nâng tầm thương hiệu cho sản phẩm cây chè ở Đình Lập.
Bà Hoàng Thị Chiêm, khu Đoàn Kết, thị trấn Nông trường Thái Bình: “Mong có chính sách hỗ trợ một phần về giống, phân bón giai đoạn đầu”.
Thu nhập của gia đình tôi và nhiều hộ gia đình khác trên địa bàn thị trấn chủ yếu nhờ vào cây chè. Tuy vậy, nhiều hộ vẫn đang trồng những giống chè cũ, chất lượng chè không cao, giá bán chè tươi vì thế thấp. Biết vậy nhưng do chi phí đầu tư ban đầu cho việc trồng chè khá lớn, do vậy, hiện tại các hộ trồng chè như chúng tôi chưa dám chuyển toàn bộ sang giống chè mới. Mong muốn của người trồng chè là Nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần giống, phân bón trong giai đoạn đầu, qua đó, người trồng chè sẽ có thêm nguồn lực để chuyển hướng sang trồng chè theo tiêu chuẩn VietGAP.
CÔNG QUÂN – TRÍ DŨNG
Ý kiến ()