Ðiều tiết hài hòa nguồn nước cho sản xuất, sinh hoạt và phát điện
Miền trung và Tây Nguyên đang trải qua đợt hạn hán nghiêm trọng. Mực nước các hồ thủy điện (HTÐ) và thủy lợi đã xuống thấp kỷ lục, nhiều HTÐ đã xuống mực nước chết. Chính phủ đã chỉ đạo ưu tiên nguồn nước các HTÐ cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Về lâu dài, các bộ, ngành, địa phương cần có các giải pháp điều tiết hài hòa nguồn nước phục vụ phát điện và cấp nước cho hạ du trong mùa nắng nóng, khô hạn, không để lãng phí tài nguyên nước.
Miền trung và Tây Nguyên đang trải qua đợt hạn hán nghiêm trọng. Mực nước các hồ thủy điện (HTÐ) và thủy lợi đã xuống thấp kỷ lục, nhiều HTÐ đã xuống mực nước chết. Chính phủ đã chỉ đạo ưu tiên nguồn nước các HTÐ cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Về lâu dài, các bộ, ngành, địa phương cần có các giải pháp điều tiết hài hòa nguồn nước phục vụ phát điện và cấp nước cho hạ du trong mùa nắng nóng, khô hạn, không để lãng phí tài nguyên nước.
Nước cạn, sản lượng giảm
Ðến nhiều HTÐ ở miền trung và Tây Nguyên, đâu đâu chúng tôi cũng thấy tình trạng cạn kiệt, một số hồ đã xuống mực nước chết. Lượng nước đổ về các hồ thấp hơn rất nhiều trung bình hằng năm. Các HTÐ, thủy lợi khu vực chỉ tích nước đạt khoảng 30 đến 70%, trong đó việc bảo đảm phát điện và cấp nước cho hạ du mùa khô 2013 đặc biệt khó khăn. Một số nhà máy thủy điện (NMTÐ) trực tiếp tham gia thị trường phát điện cạnh tranh, nay mực nước trong hồ thấp, có thể ảnh hưởng an ninh năng lượng và bảo đảm nhu cầu cấp nước năm 2013 nên đã được tạm thời loại ra khỏi thị trường điện như các NMTÐ Hương Ðiền, A Vương, Sông Côn, Sông Ba Hạ, Krông H’Năng.
Tại hồ B và C Thủy điện Vĩnh Sơn, nước hồ đã cạn chỉ hơn 20 đến 30 cm là tới mực nước chết. Hồ A chỉ cao hơn mực nước chết 5,5 m. Nếu chạy ở công suất đỉnh thì 13 ngày là hết nước. Năm 2012, nhà máy cũng chỉ vận hành đạt 80% công suất thiết kế. Tổng Giám đốc Công ty cổ phần thủy điện (CTTÐ) A Vương Nguyễn Trâm cho biết, thực tế vận hành cho thấy, lưu lượng xả qua tua-bin phát điện trong các tháng mùa khô của NMTÐ A Vương những năm qua cao gấp 1,5 đến hai lần so lượng nước về hồ, góp phần quan trọng điều tiết giảm hạn, chống ngập mặn cho vùng hạ du Vu Gia – Thu Bồn. Công ty chủ động và thường xuyên trao đổi thông tin với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam, huyện Ðại Lộc để nắm bắt tình hình sử dụng nước ở hạ du, từ đó lập kế hoạch, báo cáo Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia (A0) điều tiết xả nước phù hợp. Hiện lượng nước về HTÐ A Vương chỉ khoảng 8 m3/giây, trong khi công ty thực hiện phát điện luân phiên một tổ máy với lượng xả qua tua-bin lên tới khoảng 13 m3/giây. Nếu chạy cả hai tổ máy thì hồ sẽ cạn nước trong tám ngày.
NMTÐ Buôn Tua Srah (CTTÐ Buôn Kuôp), là bậc thang trên của các NMTÐ Buôn Kuôp và Sêrêpôk 3 (cũng do công ty quản lý), vẫn vận hành với lưu lượng xả trung bình khoảng 98 m3/giây, vận hành khoảng 8 đến 10 tiếng/ngày để vừa phát điện, cung cấp nước cho hạ du với tổng lượng xả khoảng 4,358 triệu m3/ngày trong ba tháng qua. Công ty tranh thủ phát điện vào ban ngày (bắt đầu từ 5 đến 6 giờ sáng hằng ngày) để khi nước xả về đến các xã là bắt đầu từ 7 giờ sáng, tiện cho việc lấy nước tập trung. Phó Giám đốc CTTÐ Buôn Kuôp Nguyễn Tấn Triết cho biết, theo biểu đồ, nhà máy đang vận hành trong “vùng nguy hiểm”, tức là phát điện ở vùng dưới mức hạn chế, công suất thấp hơn thiết kế mà lại tốn nước hơn, nếu trong hơn một tháng mà không mưa thì HTÐ Buôn Tua Srah sẽ hết nước. Mặc dù công suất của NMTÐ Buôn Tua Srah là 86 MW (2 tổ máy) nhưng lại là hồ chứa đầu nguồn có dung tích lớn nhất (522,6 triệu m3) và là hồ chứa duy nhất trên bậc thang sông Sêrêpôk có chế độ điều tiết năm, điều tiết dòng chảy trên toàn bậc thang. Ngay từ đầu tháng 3, công ty đã làm việc với ngành nông nghiệp tỉnh Ðác Lắc, Ðác Nông và các bên đã thống nhất được công tác điều tiết nước cho sản xuất nông nghiệp. Theo tính toán, nếu thời tiết cứ diễn biến như hiện nay thì từ giữa tháng 5 trở đi, hồ Buôn Tua Srah sẽ về mực nước chết. HTÐ Buôn Tua Srah cũng như các HTÐ khác của EVN đều gắn ca-mê-ra, thiết bị giám sát mực nước trong hồ, giám sát cửa xả… và được truyền tín hiệu trực tiếp tới các cơ quan chức năng ngành tài nguyên và môi trường, nông nghiệp…
Cần một giải pháp căn cơ
Sau cuộc họp bàn biện pháp chống hạn, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp các tỉnh miền trung, Tây Nguyên vừa qua, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 124/TB-VPCP truyền đạt ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, theo đó, ưu tiên nước cho sinh hoạt của nhân dân, chăn nuôi gia súc… Trước tình hình hạn hán nghiêm trọng nêu trên, lần đầu trong nhiều năm qua, một đoàn công tác liên ngành, gồm Tổng cục Thủy lợi, Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN) đến các địa phương miền trung, Tây Nguyên làm việc với các UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các công ty thủy nông, Chi cục Thủy lợi, các đơn vị phát điện tại từng khu vực. Sau buổi làm việc, các bên đã thống nhất được lịch xả nước của các NMTÐ. Quan điểm của Tổng cục Thủy lợi là rút ngắn thời vụ, xả nước tập trung, tránh kéo dài lãng phí nguồn nước, điều tiết hài hòa nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất và phát điện trên tinh thần tiết kiệm theo đúng tinh thần chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải. Hầu hết các địa phương đều đánh giá cao sự giúp đỡ, phối hợp của các NMTÐ, A0 đối với ngành nông nghiệp trên địa bàn.
Trên cơ sở lượng nước đã tích được trong HTÐ tính đến hiện tại cùng với dự kiến lưu lượng nước về hồ trong các tháng mùa khô (phương án tần suất nước về 75%), EVN tính toán, Nhà máy thủy điện A Vương đáp ứng nhu cầu xả nước cho hạ du của các địa phương được gần 50%; Buôn Tua Srah: hơn 101%; Sông Côn 2: 78,19%; Sông Tranh 2: 58,27%; Ðác Mil 4: 80,58%; Trị An: 252,22%; Sông Ba Hạ và Sông Hinh: 147,68%… Theo các chuyên gia, xu hướng thời tiết ngày càng cực đoan. Nắng nóng, khô hạn ở miền trung, Tây Nguyên ngày càng gay gắt. Ðịa hình miền trung, Tây Nguyên đặc thù dốc, khi có lũ thì lên nhanh, nhưng cũng nhanh cạn nước. Do vậy, về lâu dài, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần tính tới các biện pháp căn cơ. Trước mắt, cần sớm nghiên cứu, xây dựng các hồ chứa nước nhằm trữ nước, điều tiết nước cho sản xuất nông nghiệp cũng như sinh hoạt của người dân là cấp bách. Thông báo số 124/TB-VPCP cũng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu, quy hoạch nguồn nước, quy hoạch sản xuất phù hợp điều kiện nguồn nước để phát triển hồ chứa nước phù hợp lưu vực cung cấp nguồn nước, đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn. Kinh nghiệm cho thấy, các hồ thủy lợi như Ðịnh Bình, Rào Quán, Ðồng Cam… có hiệu quả rất lớn.
Phó Giám đốc Nguyễn Tấn Triết bày tỏ: Nếu như ở các tỉnh phía bắc, việc xả nước và lấy nước tập trung được thực hiện rất bài bản, nghiêm chỉnh, thì ở miền trung, Tây Nguyên lại không như vậy. Việc liên ngành cùng vào cuộc để điều tiết nguồn nước ở miền trung, Tây Nguyên cần thực hiện nghiêm ngay từ năm nay. Một điểm nữa cũng cần phải lưu tâm, đó là việc lâu nay, việc rừng phòng hộ đầu nguồn bị chặt phá đã góp phần khiến tình trạng hạn hán ngày càng nghiêm trọng hơn.
Trước mắt, để bảo đảm sử dụng nguồn nước hiệu quả, thiết nghĩ các địa phương miền trung, Tây Nguyên cần tính toán nhu cầu sử dụng nước sát thực tế. Tăng cường công tác kiểm tra, sửa chữa, bảo dưỡng, nạo vét cửa cống, bể hút trạm bơm, hệ thống kênh lớn và thủy lợi nội đồng. Các ngành chức năng của tỉnh phối hợp ngành điện, các đơn vị điện lực đóng trên địa bàn tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ bà con nông dân lấy nước tập trung để bảo đảm hiệu quả.
Nhandan

Ý kiến ()