Ðiện Biên phấn đấu sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2015
Nghị quyết Đại hội 11 Đảng bộ tỉnh Điện Biên xác định phương hướng nhiệm kỳ 2005-2010: "Tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ, của các tổ chức đảng và đảng viên; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.Tăng cường đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng bộ, toàn quân và nhân dân các dân tộc; xây dựng, củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền biên giới quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Chủ động khai thác tiềm năng lợi thế, nội lực, kết hợp với tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác phát triển với bên ngoài, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tập trung cho đầu tư phát triển. Đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp, thủy sản, dịch vụ - du lịch, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; xây dựng cơ...
Tăng cường đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng bộ, toàn quân và nhân dân các dân tộc; xây dựng, củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh, giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền biên giới quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Chủ động khai thác tiềm năng lợi thế, nội lực, kết hợp với tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác phát triển với bên ngoài, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tập trung cho đầu tư phát triển. Đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp, thủy sản, dịch vụ – du lịch, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội đạt tốc độ phát triển cao, hiệu quả, bền vững; tích cực xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Đưa Điện Biên sớm thoát khỏi tình trạng một tỉnh đặc biệt khó khăn, tiến tới thoát khỏi tình trạng một tỉnh nghèo trong giai đoạn tiếp theo' xác định 16 mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu và 18 nhiệm vụ trọng tâm.
Ngay sau đại hội, Tỉnh ủy đã xây dựng và tập trung lãnh đạo thực hiện 10 chương trình hành động trọng điểm. Bằng những giải pháp thiết thực, sát hợp tình hình, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; đặc biệt, tập trung chỉ đạo thực hiện các chương trình, dự án, chính sách hỗ trợ đối với các tỉnh miền núi, biên giới có nhiều khó khăn… Đây là điều kiện quan trọng giúp tỉnh phấn đấu vươn lên xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội, ổn định và nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc. Nhiệm kỳ qua, Điện Biên đã đạt được những kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực:
Kinh tế tăng trưởng và phát triển khá, GDP tăng bình quân 11,6%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, tăng dần tỷ trọng giá trị công nghiệp- xây dựng và dịch vụ. Đa số mục tiêu, chỉ tiêu đạt và vượt so với Nghị quyết Đại hội 11. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 6,75%/năm; công nghiệp tăng 14,52%/năm; dịch vụ thương mại tăng 25,5%/năm (gấp hơn ba lần so với năm 2005). Thu nhập bình quân đầu người 11 triệu đồng/năm. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng qua các năm (tăng 32%/năm). Chỉ số năng lực cạnh tranh trong thu hút đầu tư cấp tỉnh có bước tiến khá. Tổng vốn đầu tư (giai đoạn 2006-2010) gấp 3,5 lần so với 5 năm trước. Tiềm năng, lợi thế và nguồn lực đầu tư phát triển tiếp tục khai thác, phát huy có hiệu quả. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được tăng cường. Đã hoàn thành cải tạo, nâng cấp 210/360 km quốc lộ, các tuyến tỉnh lộ được nâng cấp rải nhựa, 100% số xã có đường ô-tô đến trung tâm; điện lưới quốc gia, cáp quang đến 9/9 huyện, thị xã, thành phố, 91% số xã và 75,5% số hộ dân được sử dụng điện; 100% số xã có dịch vụ bưu chính và điện thoại; toàn tỉnh có 17 đài, trạm phát lại truyền hình, 12 trạm thu phát sóng FM; 100% khu đô thị xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt, 85% số dân đô thị sử dụng nước sạch, 80% số dân nông thôn được cấp nước sinh hoạt; 66,49% số phòng học xây dựng kiên cố… Bộ mặt đô thị, nhiều vùng dân cư nông thôn thay đổi căn bản.
Văn hóa – xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Sự nghiệp giáo dục-đào tạo phát triển nhanh về quy mô, nâng cao chất lượng. Duy trì, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ; năm 2008, đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở; năm 2009, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; đã có 75 trường đạt chuẩn quốc gia; số học sinh, sinh viên đào tạo tại tỉnh năm 2010 tăng 207,7% so với năm 2005. Chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân được nâng lên; không để dịch bệnh lớn xảy ra. Đã xóa nhà tạm gần 20 nghìn hộ nghèo; giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 32,37% (bình quân giảm 2,34%/năm); giải quyết việc làm mới 36 nghìn lao động (7.200 lao động/năm); an sinh xã hội bảo đảm, đời sống của nhân dân các dân tộc trong tỉnh được cải thiện rõ nét…
Các chương trình, dự án trọng điểm, như: Chương trình 134, Chương trình 135, Chương trình 159 (kiên cố hóa trường lớp học), các dự án về giao thông, thủy lợi, năm triệu ha rừng…, đặc biệt Chương trình di dân tái định cư thủy điện Sơn La, Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại bốn huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Thủ tướng Chính phủ được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. Nhiều công trình hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng có hiệu quả. Đã cơ bản hoàn thành việc hỗ trợ xây dựng nhà ở cho các hộ nghèo. Chương trình thí điểm xây dựng nông thôn mới xã Thanh Chăn đang được tập trung chỉ đạo. Hoạt động văn hóa, thể thao, thông tin, tuyên truyền, báo chí… được tăng cường, đặc biệt, đẩy mạnh các phong trào thi đua lập thành tích xuất sắc chào mừng các sự kiện, kỷ niệm các ngày lễ lớn (như kỷ niệm 100 Ngày thành lập tỉnh, 60 năm Ngày thành lập Đảng bộ tỉnh, 55 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ…) đã tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong các tầng lớp nhân dân phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Công tác xây dựng đảng tiếp tục có bước chuyển biến tích cực cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Các tổ chức trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở được củng cố, kiện toàn, chất lượng hoạt động nâng lên. Số lượng, chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên tăng hằng năm; đội ngũ cán bộ, đảng viên có bước trưởng thành về mọi mặt. Đến nay, Đảng bộ tỉnh có 552 TCCSĐ (186 đảng bộ cơ sở, 366 chi bộ cơ sở), với gần 23 nghìn đảng viên; kết nạp 6.372 đảng viên mới (bình quân 1.200 đảng viên/năm). Hoạt động chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp, các ngành có nhiều đổi mới theo hướng tích cực. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội được phát huy, hoạt động có hiệu quả thiết thực.
Chính trị ổn định, khối đoàn kết các dân tộc được giữ vững và phát huy; quốc phòng – an ninh, biên giới quốc gia bảo đảm; quan hệ đối ngoại và hợp tác phát triển ngày càng rộng mở… tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự phát triển của tỉnh.
Phát huy những kết quả đã đạt được trong 5 năm 2006-2010; trên cơ sở phân tích tình hình thực tế và tiếp tục triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xác định phương hướng nhiệm kỳ 2010-2015 là: Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy truyền thống và sức mạnh đoàn kết các dân tộc, đẩy mạnh phát triển kinh tế, tập trung xóa đói, giảm nghèo, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế trên cơ sở khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Phát triển toàn diện văn hóa – xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chủ quyền biên giới quốc gia; tăng cường, mở rộng quan hệ đối ngoại; phấn đấu đưa Điện Biên sớm ra khỏi tình trạng tỉnh kém phát triển vào năm 2015 và đề ra 18 mục tiêu chủ yếu, 19 nhiệm vụ cụ thể.
Để triển khai, thực hiện phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2010-2015, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đề ra các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức Đảng. Chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng, triển khai, kiểm tra thực hiện điều lệ, nghị quyết của Đảng; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Phát huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ cương, kỷ luật gắn với trách nhiệm người đứng đầu trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Hai là, phát triển kinh tế cùng với giải quyết có hiệu quả các vấn đề về xã hội. Huy động các nguồn lực tập trung xóa đói, giảm nghèo. Gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chuyển đổi cơ cấu lao động. Thực hiện tốt vấn đề nông nghiệp- nông dân- nông thôn; ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh và quản lý.
Ba là, nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch và xây dựng các chương trình, dự án, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng đề án và đề nghị điều chỉnh chia tách một số đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã. Chủ động đề xuất với Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù tại địa phương.
Bốn là, quản lý tốt các nguồn thu, chống thất thu và gian lận thương mại; bố trí chi ngân sách khoa học, tập trung nguồn lực cho các nhiệm vụ trọng yếu; thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí. Kết hợp chặt chẽ giữa phát huy nội lực với khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Nâng cao năng lực cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc, kịp thời tháo gỡ khó khăn; chủ động xử lý các vấn đề phát sinh, không để đề án, dự án treo.
Năm là, kịp thời sơ kết, tổng kết chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, nhất là các Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội 11 Đảng bộ tỉnh, nhằm đánh giá kết quả, hạn chế, yếu kém, nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm, những mô hình, cách làm hiệu quả để nhân rộng trong thời gian tới. Coi trọng xây dựng các chương trình, dự án trọng điểm về phát triển kinh tế xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Sáu là, nâng cao chất lượng, hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám sát. Công khai, minh bạch thực hiện các chế độ chính sách nhà nước; phát huy vai trò giám sát của nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội. Giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xử lý nghiêm các tổ chức đảng, đảng viên, cán bộ vi phạm.
Bảy là, kết hợp phát triển KT-XH với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nắm chắc tình hình, dự báo tình huống có thể xảy ra, đề ra những phương án, giải pháp giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ngay tại cơ sở.
Tám là, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các tỉnh Bắc Lào, quan hệ hợp tác với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); xây dựng tuyến biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển; mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chín là, phát động phong trào thi đua liên tục và rộng khắp. Chú trọng đổi mới nội dung, phương thức phát động và tổ chức triển khai các phong trào thi đua yêu nước phù hợp, thiết thực, hiệu quả; kịp thời phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua.
Theo Nhandan
Ý kiến ()