Đề xuất cấm sử dụng điện thoại khi lái xe
Sáng 16-1, Ủy ban An toàn giao thông (ATGT) Quốc gia phối hợp Công ty TNHH Ford Việt Nam, Quỹ phòng chống thương vong châu Á công bố nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng điện thoại di động (ĐTDĐ) trong khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông.
Theo Phó Chủ tịch Chuyên trách Ủy ban ATGT Quốc gia Khuất Việt Hùng, sử dụng ĐTDĐ khi lái xe là một trong năm nguyên nhân lớn nhất dẫn tới tai nạn giao thông trên thế giới. Tại Việt Nam, mặc dù Luật Giao thông đường bộ 2008 hiện hành không cấm sử dụng điện thoại trên ô-tô, mới chỉ cấm với người đi xe máy.
Tuy nhiên, hành vi sử dụng điện thoại cầm tay khi điều khiển phương tiện cơ giới là hành vi bị cấm trong Công ước quốc tế về Giao thông đường bộ mà Việt Nam tham gia và cam kết thực hiện bởi sử dụng điện thoại cầm tay trên ô-tô hay xe máy đều là hành vi vi phạm pháp luật. Tại Việt Nam, hành vi sử dụng ĐTDĐ đang diễn biến phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp tới ATGT của cộng đồng.
Nghiên cứu được thực hiện với ba mục đích chính: Đánh giá thực trạng sử dụng điện thoại di động khi điều khiển phương tiện giao thông tại một số đô thị Việt Nam; phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định sử dụng điện thoại trong lúc đang lái xe; lượng hóa ảnh hưởng của việc sử dụng điện thoại di động tới nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông.
TS Vũ Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu GTVT Việt Đức, Trưởng nhóm nghiên cứu đã đề xuất năm giải pháp, chính sách để hạn chế hành vi sử dụng ĐTDĐ trong khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông, bao gồm: cấm hoàn toàn hành vi sử dụng ĐTDĐ cầm tay khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông.
Với điện thoại rảnh tay (Bluetooth), từ kinh nghiệm của các nước phát triển (như Mỹ, Đức, Nhật Bản,…), luật cho phép sử dụng điện thoại rảnh tay, có thể cho phép sử dụng các công nghệ kết nối như Bluetooth giúp người lái xe có thể liên lạc qua điện thoại, nhưng hoàn toàn rảnh tay để có thể tập trung lái xe an toàn, kèm theo đó là các hướng dẫn, khuyến cáo chặt chẽ và cụ thể khi sử dụng loại điện thoại rảnh tay trong khi điều khiển phương tiện.
Thứ hai, nâng cao mức phạt hành chính và bổ sung hình phạt đối với hành vi sử dụng điện thoại nhắn tin hoặc nghe gọi để đủ mức độ răn đe đối với người điều khiển ô-tô.
Thứ ba, tăng cường công tác tuần tra xử phạt. Tăng cường ứng dụng công nghệ thiết bị cho phép trích xuất hình ảnh sử dụng điện thoại cho công tác xử phạt nguội.
Thứ tư, nâng cao nhận thức của người dân về tác hại nguy hiểm của hành vi sử dụng điện thoại trong lúc lái xe bằng việc thực hiện các chiến dịch truyền thông và chương trình giáo dục ATGT. Các kết quả phân tích về sự gia tăng khả năng xảy ra tai nạn giao thông do sử dụng điện thoại trong khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông sẽ là những thông điệp có sức mạnh to lớn làm thay đổi thái độ và hành vi của người dân.
Thứ năm, cải thiện công tác đào tạo lái và sát hạch cấp phép lái xe. Cung cấp thông tin cho học viên về sự ảnh hưởng nguy hiểm của hành vi sử dụng điện thoại và các cách lái xe an toàn khi có ý định sử dụng điện thoại.
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện quan sát hơn 210 nghìn người điều khiển phương tiện có hành vi sử dụng ĐTDĐ trong khi lái xe tại chín địa điểm ở TP Hồ Chí Minh và Bình Dương. Kết quả cho thấy, hình thức sử dụng phổ biến là gọi điện thoại dạng cầm tay và nhắn tin, có rất ít người gọi điện thoại dạng rảnh tay (handsfree).
Đối tượng điều khiển xe đạp điện (e-bike) có tỷ lệ sử dụng ĐTDĐ đặc biệt cao, gấp khoảng 32-38 lần so tỷ lệ vi phạm ở đối tượng đi xe máy và xe đạp. Trong các loại đường, đường nông thôn có tỷ lệ người điều khiển phương tiện vi phạm cao nhất (khoảng 11 xe vi phạm trên mỗi 1.000 xe quan sát được).
Nam giới là đối tượng vi phạm chủ yếu, chiếm khoảng 75 – 80% các đối tượng quan sát có vi phạm. Trong những người sử dụng ĐTDĐ khi đang điều khiển phương tiện, chỉ có khoảng 6% dừng hẳn xe vào lề đường, 33% chuyển vào làn giáp lề và đi chậm lại, còn khoảng 61% vẫn giữ tốc độ xe chạy như các xe khác trên đường.
TS Vũ Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu GTVT Việt Đức, Trưởng nhóm nghiên cứu cho biết, tỷ lệ người được hỏi bị tai nạn giao thông trong hai năm qua chiếm khoảng 24%. Trong đó, sử dụng ĐTDĐ trong khi điều khiển phương tiện chiếm 6-8% tổng số vụ tai nạn giao thông.
Tỷ lệ sử dụng ĐTDĐ khi đang điều khiển phương tiện hằng ngày cao nhất rơi vào nhóm đối tượng lái xe tải (50%), tiếp đến là nhóm đối tượng lái ô-tô con (39%), nhóm lái xe khách/xe buýt (37%) và thấp nhất là nhóm đối tượng lái xe máy (8%).
Khoảng 50-60% người được phỏng vấn trả lời rằng họ vẫn điều khiển xe chạy bình thường khi sử dụng ĐTDĐ. Phần lớn người được phỏng vấn cho rằng họ có niềm tin vào khả năng kiểm soát tay lái cũng như có sự tự tin trong thực hiện hành vi sử dụng điện thoại khi đang lái xe.
Cũng theo TS Vũ Anh Tuấn, kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên sa hình ô-tô cho thấy, sử dụng điện thoại khi đang lái ô-tô có thể làm xác suất xảy ra tai nạn giao thông tăng cao gấp gần ba lần so với trường hợp không sử dụng điện thoại. Mức độ tăng xác suất xảy ra tai nạn giao thông sẽ cộng hưởng với các trường hợp sử dụng ĐTDĐ khi xe bắt đầu khởi hành, đi qua nút giao thông, tăng tốc hay giảm tốc trên đường thẳng.
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên thiết bị mô phỏng xe máy cho thấy, sử dụng điện thoại nhắn tin làm tăng rủi ro xảy ra tai nạn gấp 20,3 lần so với khi không sử dụng điện thoại. Nói chuyện điện thoại dạng cầm tay làm tăng rủi ro xảy ra tai nạn gấp 8,5 lần so với khi không sử dụng điện thoại. Nói chuyện điện thoại dạng rảnh tay làm tăng rủi ro xảy ra tai nạn gấp 5,3 lần so với khi không sử dụng điện thoại.
Yếu tố vận tốc và số năm kinh nghiệm lái xe đều ảnh hưởng đến xác suất xảy ra tai nạn khi sử dụng điện thoại cầm tay và rảnh tay. Rủi ro xảy ra tai nạn giao thông khi nhắn tin rất cao kể cả với lái xe chuyên nghiệp và có kinh nghiệm. Nội dung tin nhắn càng phức tạp càng làm phân tâm lái xe và dẫn tới rủi ro gây tai nạn cao hơn.
Phó Chủ tịch Chuyên trách Ủy ban ATGT Quốc gia Khuất Việt Hùng cho biết: “Qua nghiên cứu này, Ủy ban ATGT Quốc gia sẽ chuyển kết quả nghiên cứu tới các cơ quan có liên quan phục vụ cho việc nghiên cứu các giải pháp phù hợp, bao gồm hoàn thiện quy định pháp luật, hạ tầng kỹ thuật, tuyên truyền giáo dục và kiểm tra giám sát, cưỡng chế thực thi”.
Theo Nhandan
Ý kiến ()