tle=”Để Tây Bắc phát triển nhanh và bền vững” on click=”$('#gallery_948191663_1_318858').click(); return false;” href=”ja vasc ript:void(0);”> yerText”> Xem thêm:1 ảnh Sản xuất đá trắng xuất khẩu tại huyện Lục Yên (Yên Bái).
Ngày 1-7-2004, Bộ Chính trị (Khóa IX) ra Nghị quyết số 37-NQ/T.Ư “Về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010”. Qua sáu năm thực hiện Nghị quyết, kinh tế- xã hội các địa phương trong vùng đã có những bước tiến mạnh mẽ. Bộ mặt nông thôn miền núi các tỉnh Tây Bắc đổi thay rõ nét; tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển toàn vùng trong thời gian tới.
KỲ I
Tây Bắc khởi sắc
Địa hình các tỉnh Tây Bắc bị chia cắt với những suối sâu, núi cao, đèo quanh co và dốc đứng. Các cung đường Tây Bắc luôn làm nản lòng những người cầm lái và những ai từng có dịp đi qua. Tây Bắc vời vợi xa là vì thế. Nhưng bây giờ đã khác. Xa xôi như Lai Châu, 7 giờ sáng lên xe khoảng hơn 4 giờ chiều cùng ngày đã có mặt ở Hà Nội. Từ Hà Nội lên Yên Bái mất có mấy tiếng đồng hồ. Muốn lên Lào Cai chỉ cần thêm ba giờ nữa là tới nơi.
Từ điểm sáng Tam Đường…
Như là hiệu ứng đô-mi-nô, giao thông phát triển kéo theo sự phát triển kinh tế-xã hội. Sự phát triển nhanh chóng về mọi mặt của huyện Tam Đường (Lai Châu) là một minh chứng. Buổi làm việc giữa chúng tôi với Bí thư Huyện ủy Tam Đường Vương Văn Thắng chủ yếu diễn ra trên ô-tô và trên cánh đồng các xã Nà Tăm, Bản Bo, Sơn Bình… Đi đến đâu, đồng chí Bí thư giới thiệu đến đó để mọi người hình dung được sự đổi thay nhanh chóng suốt sáu năm qua. Hết cả buổi chiều, dọc ngang các xã trong huyện, ô-tô đều chạy trên đường trải nhựa hoặc bê-tông phẳng phiu chẳng khác gì dưới xuôi. Hai bên đường là những bản làng ngăn nắp với những ngôi nhà kiên cố ẩn mình bên những đồi trồng chè, keo lá tràm. Dưới chân đồi là những cánh đồng trồng lúa, dong riềng, đậu tương đang kỳ thu hoạch. Sự trù phú hiện hữu khắp nơi. Những hình ảnh đó cho thấy, việc Tam Đường đã hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội cấp huyện đến năm 2020, tất cả các xã đã được quy hoạch chi tiết và thực hiện tốt công tác quy hoạch, bố trí, sắp xếp lại dân cư là hoàn toàn có thật. Sáu năm trước, để Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị đi nhanh vào cuộc sống, Đảng bộ huyện đã xác định sáu chương trình trọng điểm là: Thâm canh cánh đồng từ 40 triệu đồng đến 50 triệu đồng/ha/năm tại cánh đồng Bình Lư, Bản Bo, Thèn Sin; thâm canh và phát triển cây chè; chăn nuôi đại gia súc; xây dựng bản, làng văn hóa; thu hút đầu tư phát triển hạ tầng du lịch; đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số ở địa phương. Sáu chương trình đó được UBND huyện cụ thể hóa thành sáu đề án; thành lập ban chỉ đạo từng đề án một rồi phân công rõ người, rõ việc kèm theo các nguồn lực cụ thể. Cuối cùng là huy động cả hệ thống chính trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nhờ đó, các chương trình, đề án đều đạt và vượt mục tiêu đề ra. Thí dụ, như chương trình thâm canh cánh đồng 40 triệu đồng đến 50 triệu đồng/ha/năm thì nay đã có hơn 300 ha cho thu nhập hơn 50 triệu đồng, 160 ha cho thu nhập hơn 100 triệu đồng/ha/năm. Chương trình chăn nuôi đại gia súc, sau sáu năm đã tăng thêm 12 nghìn con, nâng tổng đàn gia súc lên hơn 46 nghìn con. Tận dụng ao hồ, sông suối với nguồn nước lạnh dồi dào, Tam Đường đã có 111 ha nuôi thủy sản, trong đó có 12 ha nuôi cá nước lạnh có giá trị cao như cá hồi, cá tầm, đạt doanh thu 15 tỷ đồng/năm. Tại xã Nà Tăm nơi có hơn 99% dân số là đồng bào dân tộc Lào, Bí thư Đảng ủy xã Vàng Văn Xi cho biết: Từ sự chỉ đạo của Huyện ủy và căn cứ vào điều kiện tự nhiên-xã hội của xã, Nà Tăm đã xây dựng một số chương trình thực hiện Nghị quyết 37 rồi cụ thể hóa thành các đầu việc như trồng cây dong riềng; trồng cây đậu tương vụ thu đông; xây dựng đường giao thông liên bản và nội bản… Tất cả đều được thực hiện tốt, góp phần giúp Nà Tăm mỗi năm giảm 7 đến 8% số hộ nghèo. Đời sống của người dân ngày một tốt hơn. Cơ sở hạ tầng từ trụ sở xã, trường học, trạm y tế, đường giao thông đều được kiên cố hóa, khang trang, sạch đẹp.
Nhờ có hệ thống đường giao thông liên tỉnh, huyện và liên vùng tốt và luôn thông suốt, cho nên các sản phẩm của Tam Đường làm ra từ con cá, bó rau cho đến cân đậu tương, cân miến dong riềng hay con trâu, con bò… đều được thương lái đánh ô-tô đến tận nơi thu gom đưa về xuôi và các nơi khác trong vùng. Tất cả đã giúp cho Tam Đường có thêm nguồn lực để đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng. Đến nay, Tam Đường đã có 100% số xã có điện lưới quốc gia và đường ô-tô từ huyện đến xã. Trụ sở làm việc, trường học, trạm y tế ở các xã đều đã được kiên cố hóa. Thu nhập bình quân đầu người đạt gần 12 triệu đồng/năm, tăng 7,8 triệu đồng so năm năm trước. Bình quân mỗi năm Tam Đường giảm được 8% số hộ nghèo. Đến nay, số hộ nghèo trong toàn huyện còn 18,2% (theo tiêu chí cũ), hơn 45% theo tiêu chí mới.
Ở những nơi chúng tôi đến làm việc như các huyện Sa Pa (Lào Cai), Trạm Tấu (Yên Bái), qua sáu năm thực hiện Nghị quyết 37, cũng đều đạt được những kết quả khả quan, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế-xã hội, làm thay đổi cơ bản bộ mặt nông thôn miền núi.
…đến những đổi thay trong toàn vùng
Trong các buổi làm việc với chúng tôi, các đồng chí trong Thường trực Tỉnh ủy các tỉnh Yên Bái, Lai Châu, Lào Cai và cán bộ Ban Chỉ đạo Tây Bắc đều có chung nhận xét: Cái được lớn nhất, quan trọng nhất của Nghị quyết 37, có tính chất đòn bẩy giúp cho các tỉnh trong vùng, nhất là các tỉnh Tây Bắc, là đẩy nhanh được tốc độ phát triển kinh tế-xã hội trong sáu năm qua; có được hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh, thông suốt và liền mạch. Đầu tư cho giao thông luôn rất tốn kém, nhất là đối với các tỉnh miền núi. Nếu không có Nghị quyết 37 cùng các nguồn lực đi kèm thì các địa phương nói trên không thể nào tạo dựng được hệ thống đường sá, cầu cống như hiện nay. Lai Châu là một trong những tỉnh khó khăn nhất nước cả về tiềm lực kinh tế lẫn địa hình, nhưng sáu năm qua đã cơ bản nâng cấp được các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ trên địa bàn. Các tuyến đường giao thông nông thôn, đường đến trung tâm các xã được đầu tư làm mới, nâng cấp và cải tạo. Đến năm 2010, toàn tỉnh đã có 95 trong số 98 xã có đường ô-tô đến trung tâm (đạt 97%); trong đó có 60% đi lại được các mùa trong năm. Từ năm 2005 đến 2010, tỉnh Lào Cai đã nâng cấp 123 km quốc lộ, 153 km tỉnh lộ và một số cầu; mở mới 228 km, nâng cấp và mở rộng hơn 147 km đường ra biên giới và đường tuần tra biên giới; cải tạo, nâng cấp hơn 600 km đường giao thông nông thôn với 61% số xã có đường rải nhựa đến trung tâm. Ở Yên Bái, các tuyến đường huyết mạch nối tỉnh lỵ với các huyện và từ huyện về các xã cũng đều được nâng cấp và mở rộng. Như trên đã nói, hệ thống giao thông phát triển kéo theo sự phát triển về kinh tế-xã hội. Trong giai đoạn 2005-2010, tốc độ tăng trưởng GDP của Lào Cai đạt 12,68%/năm, Yên Bái (13%/năm), Lai Châu (13%/năm). Mỗi năm các tỉnh giảm được từ 5 đến 7% số hộ nghèo, vượt kế hoạch đề ra. Theo số liệu của Ban Chỉ đạo Tây Bắc cung cấp thì tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm của các tỉnh trong khu vực đều đạt mức từ hai con số trở lên.
Cùng với phát triển kinh tế-xã hội, hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể trên địa bàn vùng Tây Bắc không ngừng được củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác xây dựng Đảng được quan tâm đồng đều trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh. Hằng năm, mỗi tỉnh kết nạp được hơn một nghìn đảng viên, đưa tổng số đảng viên của toàn vùng hiện nay lên 549.081 đồng chí. Nhiều tỉnh đã xóa được tình trạng thôn, bản chưa có đảng viên, chưa có chi bộ. Toàn vùng hiện chỉ còn 126 thôn, bản chưa có đảng viên, chiếm tỷ lệ 0,47% và 2.378 thôn, bản chưa có chi bộ, chiếm 8,93%. Hằng năm, các tỉnh có hơn 80% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ; hơn 70% số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Sau sáu năm triển khai, Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị (Khóa IX) đã giúp các tỉnh Tây Bắc đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý; kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội toàn vùng được tăng cường; kinh tế đối ngoại phát triển khá, tăng khả năng hội nhập kinh tế của vùng; các mặt xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân trong vùng được cải thiện, hộ nghèo giảm nhanh; hệ thống chính trị được giữ vững ổn định, quốc phòng an ninh được củng cố, giữ vững… Tuy nhiên, trong sáu năm qua vẫn còn một số chỉ tiêu chưa đạt được theo như Nghị quyết 37 đề ra như: Tăng trưởng kinh tế của các tỉnh chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, nhất là đối với ngành dịch vụ. Kết cấu hạ tầng mặc dù đã được cải thiện nhưng hệ thống giao thông còn thiếu, yếu và xấu nhất so các vùng khác trong cả nước. Trình độ sản xuất thấp, đời sống người dân một số nơi vẫn còn khó khăn, tài nguyên bị khai thác quá mức; thiếu sự liên kết trong phát triển kinh tế-xã hội giữa các địa phương trong vùng… Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng chủ yếu là do các tỉnh Tây Bắc thiếu nguồn lực và đội ngũ cán bộ cơ sở; nhất là ở các xã vùng núi cao còn nhiều hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ. Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của các cấp ủy, chính quyền còn hạn chế. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở chưa được quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó, tư tưởng trông chờ vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước ở một bộ phận cán bộ và người dân còn nặng, cho nên chưa phát huy hết nội lực. Để Tây Bắc tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, một trong những nhiệm vụ cần kíp và cấp bách cần tập trung giải quyết trong thời gian tới là, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, trọng tâm là đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp ủy và chính quyền.
Theo Nhandan
Ý kiến ()