Trong Dự thảo Cương lĩnh trình Đại hội XI của Đảng đã tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam và nêu lên những bài học chủ yếu, trong đó có bài học không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Từ bài học có giá trị lý luận và thực tiễn đó, trong phần viết về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đã nêu rõ tám phương hướng cơ bản, trong đó nội dung thứ sáu là “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất”. Viết về hệ thống chính trị, Dự thảo Cương lĩnh nhấn mạnh, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Cương lĩnh là văn kiện cơ bản của Đảng nên chỉ có thể nêu lên những quan điểm và phương hướng lớn, không thể đề cập những chủ trương, chính sách, biện pháp cụ thể. Do đó, các kỳ Đại hội đều cần bổ sung những giải pháp để thực hiện hiệu quả. Với chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong Dự thảo Cương lĩnh, trước hết cần nhận thức rõ đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sự hô hào, kêu gọi chung chung mà là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng có ý nghĩa khoa học, lý luận và chính trị – thực tiễn sâu sắc. Muốn tập hợp, xây dựng lực lượng cách mạng hùng mạnh, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng lãnh đạo, cầm quyền phải chú trọng xây dựng, hoàn thiện và bảo đảm tính đúng đắn, hiện thực của Cương lĩnh, đường lối chính trị, đề ra mục tiêu chiến lược lâu dài phản ánh quy luật phát triển của cách mạng, đồng thời đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phù hợp với từng giai đoạn. Đảng chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển các tổ chức quần chúng, lựa chọn hình thức tổ chức thích hợp để tập hợp và phát huy vai trò tích cực, chủ động, tự giác của các tầng lớp nhân dân. Đảng coi trọng và không ngừng đổi mới công tác vận động quần chúng, củng cố sự gắn bó mật thiết với nhân dân, khắc phục những biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới, trong đó có 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng hoàn thiện các quan điểm và chủ trương, chính sách để thực hiện ngày càng có hiệu quả chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại hội IX của Đảng đã lấy chủ đề là phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội X của Đảng (4-2006) đã phát triển hoàn chỉnh quan điểm và hệ thống các chủ trương, chính sách nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và nhấn mạnh, đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định và đồng thuận xã hội”.
Trong vòng 5 năm từ 2003 đến 2008, Trung ương Đảng có nhiều Nghị quyết lãnh đạo tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (1-2003) ra Nghị quyết chuyên đề về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nêu bật 4 quan điểm, trong đó nhấn mạnh bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng và hợp pháp của các giai cấp và tầng lớp nhân dân. Hội nghị Trung ương cũng ra nghị quyết về công tác dân tộc, và nghị quyết về công tác tôn giáo. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X (1-2008) ra Nghị quyết về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X (7-2008) đã ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên: Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức và Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn… Đó là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ nhằm tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã và đang được hiện thực hóa.
Thực tiễn của công cuộc đổi mới hiện nay đang đặt ra những vấn đề bức thiết mà Cương lĩnh trình Đại hội XI của Đảng phải tập trung làm rõ hơn cả về lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn hơn. Theo ý kiến của tôi, cần tổng kết thực tiễn sâu sắc hơn nữa về chiến lược đại đoàn kết để củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) và các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng. Tôi xin đề xuất một số vấn đề, nội dung dưới đây.
Một là, hoàn thiện nội dung nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện đồng bộ, triệt để. Dân chủ càng mở rộng và thiết thực càng tạo sự đồng thuận xã hội và do đó sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới, nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa phát triển và đòi hỏi phải nhận thức và thực hiện đúng đắn cả từ phía Nhà nước và cả từ phía người dân, để khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện dân chủ, hoặc dân chủ hình thức, hoặc dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định chính trị, xã hội. Thực hiện dân chủ không chỉ là kêu gọi, động viên mà nội dung dân chủ, quyền làm chủ của dân, phải được thể hiện trong chính sách, pháp luật và được bảo đảm bằng chính sách, pháp luật, quy chế. Nội dung dân chủ trong chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cần được cụ thể hóa, lượng hóa để người dân hiểu và thực hiện. Cần nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung dân chủ với kỷ luật, kỷ cương, pháp luật, dân chủ với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ. Thực tế đã cho thấy, ở địa phương nào, lĩnh vực hoạt động nào, đơn vị nào thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa thì tạo được sự đồng thuận, ổn định và phát triển, củng cố được sự đoàn kết, thống nhất.
Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc gắn liền với xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị của đất nước. Năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được nâng cao chẳng những quyết định sự ổn định, phát triển của xã hội, đất nước mà còn củng cố vững chắc niềm tin của các giai cấp, dân tộc, các tầng lớp nhân dân làm cho sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng phát triển. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để mang lại lợi ích cho nhân dân, bảo đảm quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mọi giai cấp, dân tộc, lực lượng xã hội, của các thành phần kinh tế, của mọi người dân, đồng thời bảo đảm, bảo vệ, phát triển lợi ích chung của dân tộc, đất nước. Đó là cái gốc của sự đoàn kết cộng đồng dân tộc và đồng thuận xã hội. Chính phủ đã quan tâm đặc biệt đến người nghèo, nông dân nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nhằm giúp họ xóa đói, giảm nghèo. Theo đó, Chương trình 135 (1998), Chương trình 134 (2004) đã thực hiện. Vì vậy, qua 10 năm thực hiện 8 mục tiêu thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đề ra, Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả việc xóa bỏ tình trạng đói nghèo cùng cực, phổ cập tiểu học, thực hiện tốt bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Nhưng hiện nay, Nhà nước cũng cần quan tâm nhiều hơn đến công nhân, khi đời sống, thu nhập của một bộ phận công nhân còn thấp, làm sao để trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài, công nhân không bị giới chủ bóc lột quá đáng. Đối với nông dân, cần thực hiện đồng bộ chính sách tam nông của Đảng gắn liền với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Đối với trí thức, sự quan tâm đến điều kiện và đời sống vật chất là cần thiết, nhưng nhiều khi, sự động viên kịp thời, đánh giá và phát huy được năng lực thật sự của họ lại có tác dụng gấp nhiều lần. Các tổ chức Mặt trận, đoàn thể nhân dân cần đổi mới nhiều về nội dung, phương thức hoạt động. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị có ảnh hưởng to lớn đến củng cố đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, chú trọng giáo dục, đào tạo, hoàn thiện con người Việt Nam trong thời đại mới, bởi con người là thành tố, là cái gốc vững bền của dân tộc và đất nước. Mỗi người, mỗi công dân cần phải nêu cao niềm tự hào, tự tôn dân tộc, bồi đắp tinh thần yêu nước, sống và làm việc có trách nhiệm đối với đất nước, vì sự hùng cường, vững bền của Tổ quốc. Không ngừng nâng cao học vấn, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, thể chất và đạo đức. Thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, hiện thân của khối đoàn kết toàn dân, Người luôn chăm lo chiến lược con người, nâng cao đạo đức, con người sống với nhau phải có tình nghĩa, mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người, không tham lam, lười biếng, ỷ lại.
Ý kiến ()