Để nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững
Nông nghiệp phát triển bền vững là phải bảo đảm sự tăng trưởng, giá trị thu nhập tăng bền vững và ổn định, mang lại hiệu quả cả về mặt kinh tế - xã hội - môi trường cho thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của các thế hệ tương lai.
Với xu hướng đó, sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở nước ta trong những thập kỷ qua đã có những thành tựu vượt bậc.
Thứ nhất, việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các mô hình tổ chức kinh tế phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thúc đẩy sản xuất trong nông nghiệp phát triển nhanh hơn, ổn định và bền vững hơn. Thực tiễn 30 năm đổi mới cho thấy, thành tựu đạt được trong lĩnh vực nông nghiệp là hết sức ấn tượng. Nước ta từ chỗ thiếu ăn, phải nhập khẩu lương thực, đến nay bảo đảm đủ ăn và có xuất khẩu, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và góp phần bảo đảm an ninh lương thực thế giới. So với các ngành kinh tế khác, đầu tư vào nông nghiệp ít tốn kém, có tỷ suất lợi nhuận và tỷ lệ xuất siêu cao nhất[1]. Sản xuất nông nghiệp nước ta đã và đang khẳng định lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối trong bối cảnh quan hệ thương mại và phân công lao động quốc tế ngày càng phát triển. Theo số liệu của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) của Liên hợp quốc, Việt Nam là một trong những nước đứng đầu thế giới về nhiều sản phẩm nông nghiệp như: Hạt tiêu, hạt điều, gạo, cao su, đậu đỗ… Với 24 mặt hàng nông nghiệp thực phẩm đứng hàng từ 1 đến 10 thế giới, cho thấy vai trò của các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Riêng gạo, những năm gần đây nước ta xuất khẩu khoảng từ 5 đến hơn 7 triệu tấn mỗi năm.
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở nước ta trong những thập kỷ qua đã có |
Thứ hai,sản xuất tập trung hơn, thị trường mở rộng hơn theo hướng hiệu quả. Hiện nay, mô hình cánh đồng mẫu lớn đã được triển khai, góp phần làm giảm giá thành sản xuất, giảm số lần phun thuốc bảo vệ thực vật và tăng lợi nhuận. Đặc biệt, cánh đồng mẫu lớn còn tạo điều kiện triển khai những mô hình khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, đem lại hiệu quả cho cả doanh nghiệp và nông dân. Đây là những cánh đồng có diện tích hàng chục đến hàng trăm héc ta, thuận tiện cho việc đưa khoa học – kỹ thuật, áp dụng quy trình sản xuất hiện đại có hiệu quả kinh tế cao. Có thể thấy, mô hình này đã đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh lương thực và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu, góp phần thực hiện việc gắn kết chặt chẽ “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước). Bên cạnh đó, sự phát triển, mở rộng thị trường cho phép mở ra khả năng tiêu thụ nông sản hàng hoá, tạo động lực mạnh mẽ mở rộng sản xuất nông nghiệp, thực hiện thâm canh, tăng vụ, cho phép phát triển tối đa năng lực sản xuất nông nghiệp, không chỉ giải quyết cái “ăn” cho người nông dân, mà cái chính là tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ cho các nhu cầu phát triển khác. Thông qua phát triển thị trường thúc đẩy sự giao lưu, phát triển kinh tế, văn hoá giữa các vùng, các địa phương trong nước và quốc tế.
Thứ ba,phát triển và thay đổi bộ mặt đời sống ở nông thôn. Cùng với chính sách đầu tư xây dựng nông thôn mới, nhiều chính sách xã hội hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn như: Hỗ trợ vay vốn tạo việc làm cho người lao động, hướng dẫn người nghèo được cách làm ăn, miễn giảm học phí và các khoản đóng góp cho con em họ… Nhiều phong trào xã hội lớn hướng về nông thôn được thực hiện có hiệu quả: Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào xây dựng làng, khu dân cư văn hóa… Nhiều lễ hội văn hóa, truyền thống lành mạnh của làng, xã được duy trì, khôi phục; phong trào thể dục, thể thao, văn nghệ phát triển ở nhiều nơi, đi đôi với việc bài trừ các thói quen, hủ tục lạc hậu. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố, bảo đảm cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn có hiệu quả.
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, vẫn còn những hạn chế, yếu kém gây cản trở phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa nước ta theo hướng bền vững:
Một là,chưa có sự đột phá trong ứng dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Mặc dù các cấp chính quyền đã cố gắng thúc đẩy việc ứng dụng khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, song nhìn chung, sản xuất nông nghiệp vẫn thiếu những sản phẩm hàng hóa thế mạnh, chất lượng tốt, sản lượng lớn, chiếm ưu thế thị trường. Tính phụ thuộc của nông nghiệp vào thiên nhiên còn lớn, độ rủi ro cao. Phát triển nông nghiệp để tăng tỷ trọng tăng trưởng kinh tế còn khó khăn. Một năm, nếu tăng được 5% là cả một sự thách thức không nhỏ, nhưng sự giảm sút lại rất dễ xảy ra vì nhiều yếu tố khách quan, trong đó có yếu tố nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Hai là, sản xuất nhỏ đối mặt với thị trường cạnh tranh rộng lớn. Sau 30 năm thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng lĩnh vực nông nghiệp của cả nước nói chung vẫn là nền sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Mâu thuẫn sản xuất nhỏ với thị trường cạnh tranh rộng lớn đang là nhân tố cản trở sự phát triển của nông nghiệp theo hướng bền vững. Do quy mô sản xuất nhỏ, thực lực kinh tế yếu nên các hộ nông dân không đủ sức phòng chống các rủi ro của thị trường. Việc không kịp thời xử lý thông tin, sự phản ứng thụ động theo thị trường để điều chỉnh giá dẫn đến tình trạng sản phẩm có lúc ế thừa, có lúc khan hiếm, nông dân chỉ biết sản xuất cầm chừng, hoặc chuyển đổi cơ cấu theo lợi ích trước mắt, chứ chưa thể nhìn xa trông rộng hơn. Việc thực thi chủ trương cánh đồng mẫu lớn vẫn chưa đủ mạnh và hấp dẫn đối với người nông dân. Những khó khăn về đầu ra của sản phẩm và tình trạng lợi nhuận thấp dẫn đến hiện tượng nông dân không thiết tha với sản xuất trên ruộng đất của mình đang trở thành vấn đề tác động tiêu cực đến nông nghiệp phát triển bền vững.
Ba là,suy thoái tài nguyên đất và sự ô nhiễm môi trường nông thôn. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, bên cạnh mặt tích cực thì tình hình ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên đất ở các địa phương, các vùng có chiều hướng gia tăng, dẫn đến việc đất đai bị suy thoái, chất lượng giảm dần, môi trường đất bị ô nhiễm. Nguyên nhân đất bị suy thoái cũng đã được các cơ quan nghiên cứu làm rõ, tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau: Dân số tăng, quá trình đô thị hóa đã gây áp lực đối với tài nguyên đất, dẫn đến quỹ đất ngày càng thu hẹp và ô nhiễm môi trường; do chính hoạt động nông nghiệp gây ra, việc đẩy nhanh vòng quay của đất dẫn đến đất bị thoái hóa, ô nhiễm môi trường đất. Đáng chú ý, việc lạm dụng các chất hóa học trong nông nghiệp là nguyên nhân giảm số lượng các loại vi khuẩn sinh vật có ích, giảm đa dạng sinh học trong môi trường đất.
Để thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững, cần tiếp tục xây dựng những điều kiện, nền tảng bảo đảm cho quá trình phát triển nông nghiệp cũng là quá trình phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, bảo vệ các nguồn lực cho sự phát triển trong tương lai. Nghị quyết 26-NQ/TW (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn chỉ rõ: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn liền với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt”[2].
Phát huy mạnh mẽ tinh thần chủ động của nông dân, bám sát định hướng nêu trên, đồng thời để tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, kiên quyết khắc phục những hạn chế, yếu kém, nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là,tuyên truyền nâng cao nhận thức, xây đắp ý chí quyết tâm tìm tòi, sáng tạo thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững và là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế quốc dân; chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền cả chiều rộng và chiều sâu, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp phát triển bền vững. Chiều rộng là thông qua các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh tuyên truyền vị trí, vai trò và sự cần thiết phải phát triển bền vững, làm rõ những nội dung cơ bản về phát triển bền vững, nông nghiệp bền vững… Chiều sâu là đưa nội dung phát triển bền vững vào giảng dạy ở các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thành phố, trường chính trị tỉnh, các trường phổ thông, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; chú trọng đối tượng là cán bộ chủ chốt các cấp, nhất là cán bộ đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến hoạch định đường lối phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường.
Hai là,xây dựng và ban hành các chính sách, cơ chế đặc thù làm đòn bẩy cho phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Các chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp phải phù hợp với thực tiễn, có tác dụng khuyến khích sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu đối với từng mặt hàng nông sản cụ thể như: Gạo, muối, đường, rau quả sạch… Có ưu đãi về phí sử dụng đất, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là những dự án nông nghiệp công nghệ cao, dự án chế biến những nông sản thực phẩm, dự án tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập trong nông nghiệp nông thôn…; rà soát, loại bỏ những lệ phí, những khoản đóng góp chưa hợp lý.
Ba là,hoàn thiện và triển khai thực hiện quy hoạch sản xuất nông nghiệp tập trung, phát huy các nguồn lực và lợi thế vùng để đẩy nhanh quá trình nông nghiệp phát triển bền vững. Không thể có phát triển bền vững trên nền tảng sản xuất nông nghiệp thiếu quy hoạch, không tập trung. Việc quy hoạch, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, tập trung quy mô lớn sẽ giảm chi phí sản xuất, tập trung được đầu tư, có điều kiện ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, công nghiệp hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất. Công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn cần chú ý: Dự báo nhu cầu thị trường, lợi thế cạnh tranh, khả năng phát triển khoa học và công nghệ, công nghiệp chế biến; gắn quy hoạch các vùng sản xuất với đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế và áp dụng kỹ thuật mới của nền nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch, bảo vệ môi trường vào sản xuất; thực hiện sự kết hợp giữa quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp với sản xuất nông phẩm hàng hóa quy mô lớn và phát triển công nghiệp chế biến phù hợp.
Bốn là, có giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy các vùng kinh tế phát triển bền vững, gắn với chú trọng mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu các sản phẩm chế biến và chế biến sản phẩm sạch. Đây là một trong các giải pháp hết sức quan trọng của sự chuyển dịch thành công cơ cấu kinh tế nông thôn, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời đẩy nhanh thị trường tín dụng. Kiên định mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, không phát triển tràn lan “cây, con, sản phẩm” theo phong trào mà chỉ tập trung phát triển những sản phẩm từng địa phương, từng vùng có lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh. Huy động mạnh mẽ sự tham gia của công nghiệp, khoa học và công nghệ, dịch vụ vào sản xuất và đặc biệt là tín dụng cho phát triển các ngành trên. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở trong nước và quốc tế, hướng tới đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Năm là,nông nghiệp phát triển bền vững phải gắn chặt chẽ với xây dựng nông thôn mới. Xây dựng mô hình nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp tác hóa và dân chủ hoá ở cộng đồng cấp thôn theo phương pháp tiếp cận dựa vào nội lực và do cộng đồng dân cư địa phương làm chủ; gắn kế hoạch xây dựng nông thôn mới với phát triển vùng sản xuất hàng hoá tập trung, bảo đảm sự phát triển nông nghiệp, nông thôn đồng bộ và bền vững; xây dựng, hoàn chỉnh các quy hoạch chi tiết ở các xã, huy động mọi nguồn vốn, thực hiện hiệu quả các dự án theo đúng quy hoạch, chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, dồn điền, đổi thửa, xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung.
Sáu là,nông nghiệp phát triển bền vững phải chú trọng và gắn liền với tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống người dân. Nông nghiệp phát triển bền vững được khi người dân ngày càng gắn bó với hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp; chú trọng nâng cao đời sống của nông dân, không chỉ về kinh tế mà phải quan tâm các mặt văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ. Cấp bách nhất hiện nay là giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn, nhất là nông dân không có việc làm ở trong các vùng đô thị hóa, khu công nghiệp, thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo… giảm dần sự cách biệt về thu nhập và đời sống giữa các tầng lớp nhân dân ở thành thị và nông thôn. Có chính sách đầu tư khôi phục, mở rộng các làng nghề truyền thống ở các địa phương nhằm giải quyết việc làm tại chỗ cho nông dân với phương châm “ly nông, bất ly hương”.
Bảy là, xây dựng hệ thống chính trị ở nông thôn vững mạnh. Thứ nhất, dành mọi ưu tiên để nâng cao trình độ toàn diện cho đội ngũ cán bộ cơ sở: (1) trình độ lý luận, (2) trình độ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế; (3) trình độ chuyên môn nghiệp vụ; (4) trình độ khoa học kỹ thuật, những vấn đề về phát triển bền vững. Thứ hai, tăng cường giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong nội bộ, chăm lo xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở, sự giám sát của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng để hạn chế, tiến tới xóa bỏ những phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân, sự thiếu công khai, minh bạch trong sử dụng công quỹ, sử dụng đất đai, gây khiếu kiện kéo dài, vượt cấp. Thứ ba, kiên quyết đấu tranh với các phần tử có hành vi lợi dụng những vấn đề đòi hỏi lợi ích chưa được giải quyết gây mất ổn định xã hội.
Có thể khẳng định, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của phát triển bền vững, tích cực tham gia Công ước quốc tế về phát triển bền vững, thể hiện quan điểm phát triển bền vững trong các nghị quyết và Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, ban hành nhiều văn bản pháp luật và quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đây cũng là vấn đề được các cấp, các ngành, địa phương và nhân dân đồng tình, hưởng ứng, tích cực thực hiện trong giai đoạn hiện nay.
Sự nghiệp nông nghiệp phát triển bền vững là xu thế tất yếu đang cần được tiếp “năng lượng” để bứt phá. Cần tiếp tục có sự đầu tư nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống quan điểm, phương hướng, giải pháp tổng thể từ xây dựng chính sách điều hành vĩ mô, đến các biện pháp về kinh tế, xã hội, phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường để tăng năng suất, tạo ra nhiều sản phẩm xanh và mở rộng thị trường tiêu thụ./.
________________________________________
[1] Ví dụ: Năm 2010, xuất khẩu các loại nông, lâm sản của cả nước đạt 19,6 tỷ USD, nông sản nhập khẩu khoảng 5 tỷ USD, xuất siêu 14,6 tỷ USD (chiếm khoảng 70%). Trong đó, gạo là nông sản hàng đầu với sản lượng năm 2009 là 38,9 triệu tấn (giá trị 10,4 tỷ USD); năm 2011 đạt khoảng 42 triệu tấn.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 124.
ới xu hướng đó, sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở nước ta trong những thập kỷ qua đã có những thành tựu vượt bậc.
Thứ nhất, việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các mô hình tổ chức kinh tế phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thúc đẩy sản xuất trong nông nghiệp phát triển nhanh hơn, ổn định và bền vững hơn. Thực tiễn 30 năm đổi mới cho thấy, thành tựu đạt được trong lĩnh vực nông nghiệp là hết sức ấn tượng. Nước ta từ chỗ thiếu ăn, phải nhập khẩu lương thực, đến nay bảo đảm đủ ăn và có xuất khẩu, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và góp phần bảo đảm an ninh lương thực thế giới. So với các ngành kinh tế khác, đầu tư vào nông nghiệp ít tốn kém, có tỷ suất lợi nhuận và tỷ lệ xuất siêu cao nhất[1]. Sản xuất nông nghiệp nước ta đã và đang khẳng định lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối trong bối cảnh quan hệ thương mại và phân công lao động quốc tế ngày càng phát triển. Theo số liệu của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) của Liên hợp quốc, Việt Nam là một trong những nước đứng đầu thế giới về nhiều sản phẩm nông nghiệp như: Hạt tiêu, hạt điều, gạo, cao su, đậu đỗ… Với 24 mặt hàng nông nghiệp thực phẩm đứng hàng từ 1 đến 10 thế giới, cho thấy vai trò của các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Riêng gạo, những năm gần đây nước ta xuất khẩu khoảng từ 5 đến hơn 7 triệu tấn mỗi năm.
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở nước ta trong những thập kỷ qua đã có |
Thứ hai,sản xuất tập trung hơn, thị trường mở rộng hơn theo hướng hiệu quả. Hiện nay, mô hình cánh đồng mẫu lớn đã được triển khai, góp phần làm giảm giá thành sản xuất, giảm số lần phun thuốc bảo vệ thực vật và tăng lợi nhuận. Đặc biệt, cánh đồng mẫu lớn còn tạo điều kiện triển khai những mô hình khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, đem lại hiệu quả cho cả doanh nghiệp và nông dân. Đây là những cánh đồng có diện tích hàng chục đến hàng trăm héc ta, thuận tiện cho việc đưa khoa học – kỹ thuật, áp dụng quy trình sản xuất hiện đại có hiệu quả kinh tế cao. Có thể thấy, mô hình này đã đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh lương thực và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu, góp phần thực hiện việc gắn kết chặt chẽ “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước). Bên cạnh đó, sự phát triển, mở rộng thị trường cho phép mở ra khả năng tiêu thụ nông sản hàng hoá, tạo động lực mạnh mẽ mở rộng sản xuất nông nghiệp, thực hiện thâm canh, tăng vụ, cho phép phát triển tối đa năng lực sản xuất nông nghiệp, không chỉ giải quyết cái “ăn” cho người nông dân, mà cái chính là tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ cho các nhu cầu phát triển khác. Thông qua phát triển thị trường thúc đẩy sự giao lưu, phát triển kinh tế, văn hoá giữa các vùng, các địa phương trong nước và quốc tế.
Thứ ba,phát triển và thay đổi bộ mặt đời sống ở nông thôn. Cùng với chính sách đầu tư xây dựng nông thôn mới, nhiều chính sách xã hội hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn như: Hỗ trợ vay vốn tạo việc làm cho người lao động, hướng dẫn người nghèo được cách làm ăn, miễn giảm học phí và các khoản đóng góp cho con em họ… Nhiều phong trào xã hội lớn hướng về nông thôn được thực hiện có hiệu quả: Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào xây dựng làng, khu dân cư văn hóa… Nhiều lễ hội văn hóa, truyền thống lành mạnh của làng, xã được duy trì, khôi phục; phong trào thể dục, thể thao, văn nghệ phát triển ở nhiều nơi, đi đôi với việc bài trừ các thói quen, hủ tục lạc hậu. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố, bảo đảm cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn có hiệu quả.
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, vẫn còn những hạn chế, yếu kém gây cản trở phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa nước ta theo hướng bền vững:
Một là,chưa có sự đột phá trong ứng dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Mặc dù các cấp chính quyền đã cố gắng thúc đẩy việc ứng dụng khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, song nhìn chung, sản xuất nông nghiệp vẫn thiếu những sản phẩm hàng hóa thế mạnh, chất lượng tốt, sản lượng lớn, chiếm ưu thế thị trường. Tính phụ thuộc của nông nghiệp vào thiên nhiên còn lớn, độ rủi ro cao. Phát triển nông nghiệp để tăng tỷ trọng tăng trưởng kinh tế còn khó khăn. Một năm, nếu tăng được 5% là cả một sự thách thức không nhỏ, nhưng sự giảm sút lại rất dễ xảy ra vì nhiều yếu tố khách quan, trong đó có yếu tố nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Hai là, sản xuất nhỏ đối mặt với thị trường cạnh tranh rộng lớn. Sau 30 năm thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng lĩnh vực nông nghiệp của cả nước nói chung vẫn là nền sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Mâu thuẫn sản xuất nhỏ với thị trường cạnh tranh rộng lớn đang là nhân tố cản trở sự phát triển của nông nghiệp theo hướng bền vững. Do quy mô sản xuất nhỏ, thực lực kinh tế yếu nên các hộ nông dân không đủ sức phòng chống các rủi ro của thị trường. Việc không kịp thời xử lý thông tin, sự phản ứng thụ động theo thị trường để điều chỉnh giá dẫn đến tình trạng sản phẩm có lúc ế thừa, có lúc khan hiếm, nông dân chỉ biết sản xuất cầm chừng, hoặc chuyển đổi cơ cấu theo lợi ích trước mắt, chứ chưa thể nhìn xa trông rộng hơn. Việc thực thi chủ trương cánh đồng mẫu lớn vẫn chưa đủ mạnh và hấp dẫn đối với người nông dân. Những khó khăn về đầu ra của sản phẩm và tình trạng lợi nhuận thấp dẫn đến hiện tượng nông dân không thiết tha với sản xuất trên ruộng đất của mình đang trở thành vấn đề tác động tiêu cực đến nông nghiệp phát triển bền vững.
Ba là,suy thoái tài nguyên đất và sự ô nhiễm môi trường nông thôn. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, bên cạnh mặt tích cực thì tình hình ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên đất ở các địa phương, các vùng có chiều hướng gia tăng, dẫn đến việc đất đai bị suy thoái, chất lượng giảm dần, môi trường đất bị ô nhiễm. Nguyên nhân đất bị suy thoái cũng đã được các cơ quan nghiên cứu làm rõ, tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau: Dân số tăng, quá trình đô thị hóa đã gây áp lực đối với tài nguyên đất, dẫn đến quỹ đất ngày càng thu hẹp và ô nhiễm môi trường; do chính hoạt động nông nghiệp gây ra, việc đẩy nhanh vòng quay của đất dẫn đến đất bị thoái hóa, ô nhiễm môi trường đất. Đáng chú ý, việc lạm dụng các chất hóa học trong nông nghiệp là nguyên nhân giảm số lượng các loại vi khuẩn sinh vật có ích, giảm đa dạng sinh học trong môi trường đất.
Để thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững, cần tiếp tục xây dựng những điều kiện, nền tảng bảo đảm cho quá trình phát triển nông nghiệp cũng là quá trình phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, bảo vệ các nguồn lực cho sự phát triển trong tương lai. Nghị quyết 26-NQ/TW (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn chỉ rõ: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn liền với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt”[2].
Phát huy mạnh mẽ tinh thần chủ động của nông dân, bám sát định hướng nêu trên, đồng thời để tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, kiên quyết khắc phục những hạn chế, yếu kém, nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là,tuyên truyền nâng cao nhận thức, xây đắp ý chí quyết tâm tìm tòi, sáng tạo thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững và là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế quốc dân; chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền cả chiều rộng và chiều sâu, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp phát triển bền vững. Chiều rộng là thông qua các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh tuyên truyền vị trí, vai trò và sự cần thiết phải phát triển bền vững, làm rõ những nội dung cơ bản về phát triển bền vững, nông nghiệp bền vững… Chiều sâu là đưa nội dung phát triển bền vững vào giảng dạy ở các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thành phố, trường chính trị tỉnh, các trường phổ thông, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; chú trọng đối tượng là cán bộ chủ chốt các cấp, nhất là cán bộ đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến hoạch định đường lối phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường.
Hai là,xây dựng và ban hành các chính sách, cơ chế đặc thù làm đòn bẩy cho phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Các chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp phải phù hợp với thực tiễn, có tác dụng khuyến khích sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu đối với từng mặt hàng nông sản cụ thể như: Gạo, muối, đường, rau quả sạch… Có ưu đãi về phí sử dụng đất, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là những dự án nông nghiệp công nghệ cao, dự án chế biến những nông sản thực phẩm, dự án tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập trong nông nghiệp nông thôn…; rà soát, loại bỏ những lệ phí, những khoản đóng góp chưa hợp lý.
Ba là,hoàn thiện và triển khai thực hiện quy hoạch sản xuất nông nghiệp tập trung, phát huy các nguồn lực và lợi thế vùng để đẩy nhanh quá trình nông nghiệp phát triển bền vững. Không thể có phát triển bền vững trên nền tảng sản xuất nông nghiệp thiếu quy hoạch, không tập trung. Việc quy hoạch, hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, tập trung quy mô lớn sẽ giảm chi phí sản xuất, tập trung được đầu tư, có điều kiện ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, công nghiệp hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất. Công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn cần chú ý: Dự báo nhu cầu thị trường, lợi thế cạnh tranh, khả năng phát triển khoa học và công nghệ, công nghiệp chế biến; gắn quy hoạch các vùng sản xuất với đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế và áp dụng kỹ thuật mới của nền nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch, bảo vệ môi trường vào sản xuất; thực hiện sự kết hợp giữa quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp với sản xuất nông phẩm hàng hóa quy mô lớn và phát triển công nghiệp chế biến phù hợp.
Bốn là, có giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy các vùng kinh tế phát triển bền vững, gắn với chú trọng mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu các sản phẩm chế biến và chế biến sản phẩm sạch. Đây là một trong các giải pháp hết sức quan trọng của sự chuyển dịch thành công cơ cấu kinh tế nông thôn, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời đẩy nhanh thị trường tín dụng. Kiên định mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, không phát triển tràn lan “cây, con, sản phẩm” theo phong trào mà chỉ tập trung phát triển những sản phẩm từng địa phương, từng vùng có lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh. Huy động mạnh mẽ sự tham gia của công nghiệp, khoa học và công nghệ, dịch vụ vào sản xuất và đặc biệt là tín dụng cho phát triển các ngành trên. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở trong nước và quốc tế, hướng tới đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Năm là,nông nghiệp phát triển bền vững phải gắn chặt chẽ với xây dựng nông thôn mới. Xây dựng mô hình nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp tác hóa và dân chủ hoá ở cộng đồng cấp thôn theo phương pháp tiếp cận dựa vào nội lực và do cộng đồng dân cư địa phương làm chủ; gắn kế hoạch xây dựng nông thôn mới với phát triển vùng sản xuất hàng hoá tập trung, bảo đảm sự phát triển nông nghiệp, nông thôn đồng bộ và bền vững; xây dựng, hoàn chỉnh các quy hoạch chi tiết ở các xã, huy động mọi nguồn vốn, thực hiện hiệu quả các dự án theo đúng quy hoạch, chú trọng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, dồn điền, đổi thửa, xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung.
Sáu là,nông nghiệp phát triển bền vững phải chú trọng và gắn liền với tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống người dân. Nông nghiệp phát triển bền vững được khi người dân ngày càng gắn bó với hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp; chú trọng nâng cao đời sống của nông dân, không chỉ về kinh tế mà phải quan tâm các mặt văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ. Cấp bách nhất hiện nay là giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn, nhất là nông dân không có việc làm ở trong các vùng đô thị hóa, khu công nghiệp, thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo… giảm dần sự cách biệt về thu nhập và đời sống giữa các tầng lớp nhân dân ở thành thị và nông thôn. Có chính sách đầu tư khôi phục, mở rộng các làng nghề truyền thống ở các địa phương nhằm giải quyết việc làm tại chỗ cho nông dân với phương châm “ly nông, bất ly hương”.
Bảy là, xây dựng hệ thống chính trị ở nông thôn vững mạnh. Thứ nhất, dành mọi ưu tiên để nâng cao trình độ toàn diện cho đội ngũ cán bộ cơ sở: (1) trình độ lý luận, (2) trình độ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế; (3) trình độ chuyên môn nghiệp vụ; (4) trình độ khoa học kỹ thuật, những vấn đề về phát triển bền vững. Thứ hai, tăng cường giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong nội bộ, chăm lo xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở, sự giám sát của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng để hạn chế, tiến tới xóa bỏ những phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân, sự thiếu công khai, minh bạch trong sử dụng công quỹ, sử dụng đất đai, gây khiếu kiện kéo dài, vượt cấp. Thứ ba, kiên quyết đấu tranh với các phần tử có hành vi lợi dụng những vấn đề đòi hỏi lợi ích chưa được giải quyết gây mất ổn định xã hội.
Có thể khẳng định, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của phát triển bền vững, tích cực tham gia Công ước quốc tế về phát triển bền vững, thể hiện quan điểm phát triển bền vững trong các nghị quyết và Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, ban hành nhiều văn bản pháp luật và quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đây cũng là vấn đề được các cấp, các ngành, địa phương và nhân dân đồng tình, hưởng ứng, tích cực thực hiện trong giai đoạn hiện nay.
Sự nghiệp nông nghiệp phát triển bền vững là xu thế tất yếu đang cần được tiếp “năng lượng” để bứt phá. Cần tiếp tục có sự đầu tư nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống quan điểm, phương hướng, giải pháp tổng thể từ xây dựng chính sách điều hành vĩ mô, đến các biện pháp về kinh tế, xã hội, phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường để tăng năng suất, tạo ra nhiều sản phẩm xanh và mở rộng thị trường tiêu thụ./.
________________________________________
[1] Ví dụ: Năm 2010, xuất khẩu các loại nông, lâm sản của cả nước đạt 19,6 tỷ USD, nông sản nhập khẩu khoảng 5 tỷ USD, xuất siêu 14,6 tỷ USD (chiếm khoảng 70%). Trong đó, gạo là nông sản hàng đầu với sản lượng năm 2009 là 38,9 triệu tấn (giá trị 10,4 tỷ USD); năm 2011 đạt khoảng 42 triệu tấn.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 124.
Theo Dangcongsan.vn
Ý kiến ()