Dấu ấn 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển của NHCSXH
Nguồn vốn tín dụng chính sách tập trung ưu tiên cho vay các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới. |
Ngày 10/7/2012, tại Quyết định số 852/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) giai đoạn 2011-2020. Trong giai đoạn này, ở một số thời điểm, nước ta gặp nhiều khó khăn, trong đó thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp (bão, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn…), nguy cơ nghèo và tái nghèo luôn rình rập khiến tín dụng chính sách xã hội cũng cần có những bước chuyển mới cả về nguồn lực, phương thức hỗ trợ.
Điểm thuận lợi lớn nhất là Đảng, Nhà nước đã dành sự quan tâm lớn cho công tác giảm nghèo, đồng thời quyết liệt chỉ đạo trong việc tập trung nguồn lực lớn để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách thông qua NHCSXH.
Trong 10 năm, ngân sách Nhà nước đã cấp 41.204,5 tỷ đồng (cấp bổ sung 8.270,5 tỷ đồng vốn điều lệ, 12.412 tỷ đồng cho NHCSXH để thực hiện tín các chương trình tín dụng); năm 2017, năm đầu tiên NHCSXH được bố trí nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020. Đây là tiền đề giúp NHCSXH có nguồn vốn tăng trưởng ổn định, bền vững, qua đó nâng cao năng lực tài chính.
Từ năm 2011 đến nay, Nhà nước đã ban hành hoặc bổ trợ nhiều chính sách tín dụng chính sách mới (cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, cho vay giải quyết việc làm, chính sách riêng cho từng đối tượng yếu thế như đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, đồng bào thiểu số nghèo, đời sống khó khăn ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chương trình tín dụng ứng phó với biển đổi khí hậu…) để không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển của đất nước.
Với sự quan tâm trong công cuộc giảm nghèo, ngày 22/11/2014, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40-CT/TW). Đây là dấu mốc quan trọng trong việc kết nối hệ thống chính trị-xã hội thành một thể thống nhất tham gia công cuộc giảm nghèo, làm sâu sắc hơn hiệu quả một chính sách đặc thù phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Chỉ thị số 40-CT/TW và Quyết định số 401/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW đi vào đời sống, đã đưa nguồn vốn nhận ủy thác tại địa phương trở thành điểm nổi bật trong việc tập trung nguồn lực thực hiện hiệu quả tín dụng chính sách xã hội.
Đến nay, nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH đạt 20.200 tỷ đồng, tăng gấp 8,8 lần so với năm 2010. Bên cạnh đó, hệ thống các tổ chức tín dụng Nhà nước tiếp tục duy trì 2% số dư tiền gửi tại NHCSXH, đưa nguồn vốn này tăng 6,4 lần so với trước thời điểm thực hiện Chiến lược (từ 12.821 tỷ đồng năm 2010 lên 81.462 tỷ đồng).
Từ năm 2014, phương thức ủy thác cho vay qua các tổ chức chính trị-xã hội (Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh, Hội Nông dân) đạt hiệu quả hơn với việc NHCSXH cùng các tổ chức này ký kết lại phương thức cho vay ủy thác. Đến nay, 4 tổ chức chính trị – xã hội nhận ủy thác đang phối hợp với NHCSXH tham gia quản lý 224.344 tỷ đồng, chiếm 99,5%/tổng dư nợ tín dụng chính sách xã hội.
Tháng 3/2015, Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương cho phép bổ sung Chủ tịch UBND cấp xã tham gia Ban đại diện HĐQT NHCSXH cấp huyện. Quyết định này đã tạo sự chuyển biến tích cực và đồng đều trên các mặt hoạt động, nâng cao chất lượng hiệu quả nguồn vốn và vai trò quản lý Nhà nước, đặc biệt là của chính quyền cấp xã với hoạt động tín dụng chính sách xã hội.
Những quyết sách nói trên của Đảng, Nhà nước đã minh chứng tính hiệu quả của phương thức quản lý tín dụng chính sách xã hội đặc thù phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Về phía mình, một trong những vấn đề được NHCSXH quan tâm đặc biệt là độ bao phủ và chất lượng tín dụng chính sách thông qua “cánh tay nối dài” là các tổ tiết kiệm và vay vốn. Trong 10 năm qua, gần 173.000 tổ tiết kiệm và vay vốn, 10.426 điểm giao dịch xã phủ rộng trên hầu hết các thôn, xã, phường, thị trấn trong cả nước, đã giúp NHCSXH thực hiện hiệu quả phương châm “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”, “Giao dịch tại nhà, giải ngân tại xã”.
Bên cạnh đó, nhằm không ngừng củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng, NHCSXH đã đưa cán bộ có kinh nghiệm từ Hội sở chính và các chi nhánh tham gia củng cố chất lượng tín dụng cho các chi nhánh có chất lượng hoạt động yếu, góp phần đưa tỉ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống luôn thấp hơn so với mục tiêu đề ra (dưới 3%/tổng dư nợ). Kết quả là đến nay, nợ quá hạn và nợ khoanh của toàn hệ thống chỉ chiếm khoảng dưới 1%/tổng dư nợ.
Theo NHCSXH, giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng trưởng dư nợ các chương trình tín dụng đạt bình quân khoảng 10%/năm. Quy mô tổng dư nợ các chương trình tín dụng tăng gấp 2,5 lần, từ 89.462 tỷ đồng năm 2010 lên 226.264 tỷ đồng (ước đến 31/12/2020), với gần 6,5 triệu hộ đối tượng chính sách đang còn dư nợ, trong đó dư nợ cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt 56.344 tỷ đồng (chiếm 25%/tổng dư nợ); tín dụng chính sách đã đến với 100% các xã vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Đến nay, trên cả nước, có hơn 21,5 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách khác được vay vốn từ NHCSXH với doanh số cho vay lên tới 504.565 tỷ đồng. Tín dụng chính sách xã hội góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011-2015 từ 14,2% xuống 4,25%; tỉ lệ hộ nghèo đa chiều đã giảm từ 9,88% (năm 2016) xuống còn 3,75% (năm 2019), dự kiến xuống dưới 3% (năm 2020).
Ý kiến ()