Cung cấp khí gặp khó
Thời điểm hiện tại, nhu cầu huy động khí cho phát điện ở mức thấp so với kế hoạch và cùng kỳ năm 2020. Trong đó, khu vực Đông Nam Bộ đạt 87,5%; Tây Nam Bộ đạt 72,7% kế hoạch huy động khí cho sản xuất điện. Bên cạnh tác động xấu đến nguồn thu ngân sách, tình trạng này còn ảnh hưởng không nhỏ tới sự ổn định nguồn an ninh năng lượng quốc gia.
Theo một lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), trong hai năm trở lại đây nhu cầu huy động khí cho phát điện liên tục sụt giảm. Dự báo những tháng cuối năm, nhu cầu khí tiếp tục ở mức thấp khi sức chịu đựng của nhiều doanh nghiệp tới hạn sau một thời gian dài chống đỡ với dịch bệnh. Các nhà máy điện là khách hàng tiêu thụ chính, chiếm tới 80% tổng sản lượng khí. Tuy nhiên, việc giảm huy động khí cho phát điện sẽ làm giảm công suất các nhà máy, lãng phí khối tài sản đã đầu tư xây dựng các cụm công trình khí – điện; kéo theo việc giảm khai thác ở các mỏ dầu khí ngoài khơi. Điều này sẽ gây thiệt hại do giảm nguồn thu ngân sách từ hoạt động khai thác dầu khí bao gồm: thuế tài nguyên, phần chia lãi nước chủ nhà, phần chia lãi nhà thầu trong nước, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế xuất khẩu sản phẩm dầu khí, thuế giá trị gia tăng,…
Nguồn thu của Nhà nước cũng bị sụt giảm tương tự đối với hoạt động vận chuyển khí từ ngoài biển về bờ. Ngoài ra, việc giảm huy động khí cho phát điện sẽ làm phát sinh nghĩa vụ trả trước của bên mua khí với các chủ mỏ, khi số tiền ứng trước không nhỏ làm ảnh hưởng đến cân đối dòng tiền của bên mua khí. Việc huy động khí cho điện thấp dẫn đến mức thu ngân sách của các địa phương bị giảm so với năm 2020. Đơn cử, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu dự kiến giảm 435 tỷ đồng, các tỉnh, thành phố khác cũng rơi vào tình trạng tương tự. Theo dự báo, việc huy động khí năm sau tiếp tục sụt giảm sâu khi khả năng huy động khí cho phát điện khu vực Đông Nam Bộ không cao hơn 2,8 tỷ m 3và khu vực Tây Nam Bộ có thể xuống thấp đến 755 triệu m 3. Điều đó khiến thu ngân sách của các địa phương bị sụt giảm lớn, cụ thể, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị giảm khoảng 1.121 tỷ đồng.
Tình hình huy động khí cho phát điện thấp cũng phản ánh nhu cầu phụ tải thấp trên thị trường điện. Ngành điện đối diện với bài toán thừa điện do hoạt động sản xuất, kinh doanh bị ảnh hưởng, nhiều nhà máy giảm công suất, ngừng hoạt động bởi tác động của dịch Covid-19. Thêm vào đó, nguồn cung của hệ thống điện quốc gia tăng đáng kể do các dự án điện năng lượng tái tạo được đưa vào vận hành và đây là nguồn thường được ưu tiên huy động nhưng lại có mức giá cao hơn rất nhiều so với giá nhiệt điện khí.
Theo đánh giá của các chuyên gia, huy động khí cho phát điện giảm sẽ tác động tiêu cực môi trường vì khí thiên nhiên được xem là dạng năng lượng sạch sử dụng hiệu quả cho điện, ít phát thải khí nhà kính. Việc này cũng tác động đến công tác đầu tư đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí trong nước nói chung và nhất là tại vùng nước sâu, xa bờ nói riêng trong chiến lược bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Đồng thời không tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của quốc gia, cũng như không thu hút đầu tư phát triển các dự án nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) để bảo đảm nguồn năng lượng sơ cấp lâu dài cho hệ thống điện quốc gia.
Ngoài ra, việc giảm huy động khí cho phát điện cũng tác động đến các dự án nhập khẩu LNG theo Quyết định số 2233/QĐ-TTg, ngày 28/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã yêu cầu tổ chức triển khai nhằm bảo đảm cơ sở hạ tầng cho việc nhập khẩu LNG, vận hành chuỗi cung ứng LNG đáp ứng yêu cầu về an ninh năng lượng. Trong ngắn hạn, việc này có thể tác động làm chậm trễ quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG. Khi kinh tế hồi phục, nhu cầu năng lượng gia tăng sẽ tất yếu dẫn đến thiếu hụt nguồn cung năng lượng, khả năng nhập khẩu LNG sẽ bị hạn chế do việc phát triển cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG đòi hỏi thời gian dài hạn từ 4 đến 5 năm. Do đó, huy động khí cho phát điện, nhất là từ nguồn LNG nhập khẩu cần phải có kế hoạch dài hạn ổn định để có thể triển khai, đáp ứng cơ cấu an toàn về nguồn điện trong hệ thống điện quốc gia; đồng thời tận dụng nguồn lực hạ tầng sẵn có từ cảng biển, hệ thống đường ống, trạm phân phối để có thể kết nối tổng thể duy trì sự đồng bộ và hiệu quả đối với quy hoạch phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật cung cấp khí cho phát điện trên toàn quốc, đáp ứng nhu cầu năng lượng của đất nước trong cả ngắn và dài hạn; bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ đầu tư chuỗi dự án khí – điện.
Theo Nhandan
Ý kiến ()