Công nghệ cho 4G: Wimax hay LTE?
Nếu Việt Nam có triển khai 4G thì phải ít nhất 2-3 năm nữa mới tính tới, song ở thời điểm này, câu chuyện lựa chọn công nghệ nào cho 4G vẫn đang hút sự quan tâm của giới viễn thông. Và xem ra, cán cân 4G đang nghiêng về LTE nhiều hơn…
Mỗi “người” một vẻ
Theo thống kê trên website của liên minh Wimax, thế giới hiện có 568 mạng ở 148 quốc gia đang triển khai công nghệ Wimax (Worldwide Interoperability for Microwave Access – Khả năng tương tác toàn cầu với truy nhập vi ba). Riêng khu vực châu Á có 100 mạng triển khai công nghệ không dây này.
Riêng Việt
Công nghệ WiMAX, hay còn gọi là chuẩn 802.16 được biết tới là công nghệ không dây băng thông rộng. Không giống các chuẩn không dây khác, WiMAX cho phép truyền dữ liệu trên nhiều dải tần, có thể tránh “đụng độ” với những ứng dụng không dây khác.
WiMAX cho tốc độ cao một phần nhờ kỹ thuật OFDM (Orthogonal Frequency Division Multiplexing) cho phép tăng băng thông bằng cách chia tách các kênh băng rộng thành nhiều kênh băng hẹp, mỗi kênh dùng tần số khác nhau để truyền đồng thời các gói dữ liệu.
Ngoài chuẩn 802.16d dành cho Wimax cố định được công nhận từ năm 2004, tháng 12/2005, IEEE phê chuẩn 802.16e – Mobile Wimax.
Mobile WiMAX cung cấp khả năng di động bằng cách cho phép chuyển kênh truyền dữ liệu từ một trạm thu phát này sang một trạm khác khi người dùng di chuyển giữa 2 trạm. Tương tự phiên bản 802.11n của Wi-Fi, Mobile WiMAX dùng công nghệ MIMO (Multiple Input Multiple Output) cho phép phát và thu qua nhiều anten để cải thiện tốc độ và chất lượng tín hiệu. Mobile Wimax được kỳ vọng cạnh tranh với các công nghệ di động, Wi-Fi và các công nghệ truy cập Internet như DSL.
Đặc biệt, năm 2007, Hội Truyền thông Vô tuyến điện ITU đã đưa Wimax vào họ công nghệ IMT-2000. Quyết định khi đó được kỳ vọng giúp tăng khả năng triển khai ứng dụng WiMAX tại nhiều nước châu Á trong đó có Việt Nam – những nơi còn đang chờ chuẩn hóa WiMAX để tận dụng kinh tế qui mô toàn cầu về công nghệ và thiết bị. “Họ” các công nghệ IMT-2000 ngoài Wimax còn có GSM, CDMA và UMTS.
Cùng với Wimax, LTE (Long Term Evolution) được xem là một ứng viên nặng ký khi các quốc gia triển khai lên 4G. LTE là thế hệ thứ tư tương lai của chuẩn UMTS còn UMTS chính là thế hệ thứ ba dựa trên WCDMA đã được triển khai trên toàn thế giới.
Để đảm bảo tính cạnh tranh cho hệ thống này trong tương lai, tháng 11/2004 3GPP đã bắt đầu dự án nhằm xác định bước phát triển về lâu dài cho công nghệ di động UMTS với tên gọi Long Term Evolution (LTE).
Wimax và LTE là 2 công nghệ được đánh giá cao nhất khi triển khai 4G.
Công nghệ nào lên ngôi?
Trên thế giới, 4G dù chưa phải phổ biến song cũng đã có quốc gia và các hãng viễn thông triển khai. Chẳng hạn như Ericsson. Tháng 1/2009, Ericsson và nhà mạng tại Thụy Điển đã triển khai thương mại TeliaSonera mạng LTE/4G đầu tiên tại Thụy Điển.
Tới tháng 1/2010 đã triển khai diện rộng mạng TeliaSonera trên toàn quốc ở Na Uy và Thụy Điển. Ngoài ra, Ericsson đã ký hợp đồng triển khai LTE trong thời gian tới với các nhà mạng AT&T (Mỹ), MetroPCS, Verizon Wireless (Mỹ), NTT Docomo (Nhật). Ericsson cũng đã tiến hành các thử nghiệm LTE/4G với các mạng Telstra, SingTel, T-Mobile Hungary, Zain Saudia Arabia.
Với Việt Nam, ở thời điểm này, cơ quan quản lý nhà nước chưa đưa ra quyết định sẽ đi lên 4G bằng Wimax hay LTE mà quan điểm sẽ tổ chức một hội thảo giữa Bộ với các doanh nghiệp để tìm ra sự lựa chọn hợp lý nhất.
Theo phân tích của các chuyên gia, hiện tại Wimax có lợi thế đi trước LTE. Không chỉ trên thế giới mà ngay cả ở Việt
Song, so với Wimax, LTE lại có một thế mạnh được cho là rất quan trọng. LTE nếu được triển khai cho phép tận dụng dụng hạ tầng GSM có sẵn dù vẫn phải đầu tư thêm thiết bị. Còn Wimax, nếu muốn triển khai thì phải xây dựng từ đầu một mạng mới.
Với Việt
Tuy nhiên, người đứng đầu Bộ Thông tin và Truyền thông, ông Lê Doãn Hợp từng khẳng định, ở thời điểm này, Việt Nam vẫn chưa có kế hoạch triển khai 4G. Nếu có, phải ít nhất là năm 2012. Và với mốc thời gian này, biết đâu, LTE lại thắng thế hơn Wimax?
Nhưng dù có lựa chọn công nghệ gì đi chăng nữa, điều quan trọng nhất mà người dùng Việt đặt kỳ vọng ở các nhà khai thác mạng, cung cấp dịch vụ đó là làm sao đáp ứng được ba tiêu chuẩn. Một chuyên gia của Ericsson chia sẻ.
Thứ nhất , đó là tính thân thiện và đơn giản của dịch vụ công nghệ cung cấp. Đa số người dùng trước đây chưa biết nhiều về Internet do đó tính thân thiện giúp họ sử dụng lần đầu tiên mà không bị nhầm lẫn là điều rất quan trọng.
Thứ hai đó chính là những nội dung tiếng Việt mà họ có thể hưởng thụ từ dịch vụ.
Và thứ ba , là giá cả hợp lý. Đặc biệt là dịch vụ trả trước. Có thể nói, đa số người sử dụng không hiểu về sự liên quan giữa Megabyte và giá cả nên chính sách giá phải dễ hiểu.
Ý kiến ()