Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, từ năm 1986 đến nay đã trải qua gần 25 năm. Đó là công trình vĩ đại của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1. Đường lối đổi mới ngày càng hoàn thiện
Theo nghĩa thông thường, “đổi mới” là thay đổi cho khác hẳn với trước, tiến bộ hơn, khắc phục tình trạng lạc hậu, trì trệ và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Đó là quá trình vận động tự nhiên của mọi hiện tượng trong xã hội.
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm “đổi mới” trong sự vận dụng cụ thể vào đổi mới đất nước. Người viết: Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới nhận thức, Hồ Chí Minh viết: Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và làm để tiến bộ kịp nhân dân. Năm 1964, trong Báo cáo Hội nghị chính trị đặc biệt, Người viết: Trong 10 năm qua, miền bắc nước ta đã tiến bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới.
Đại hội VI (1986) của Đảng đã nhấn mạnh: Đổi mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ đây, thuật ngữ “đổi mới” được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng, trong sách báo cũng như ngôn ngữ hằng ngày của nhân dân ta.
Trong gần 25 năm qua, nhận thức về “đổi mới” cũng không ngừng phát triển. Thời kỳ đầu, “đổi mới” được hiểu là những suy nghĩ, những hành động riêng lẻ, cụ thể, nhằm thay đổi một nhận thức, một cách làm nhất định nào đó có tính tình thế, càng về sau, càng được nhận thức đầy đủ hơn – đó là một chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; nó bao quát toàn diện, không trừ lĩnh vực nào của quá trình đó.
“Đổi mới” là quá trình loại bỏ những gì kìm hãm và cản trở sự phát triển, tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực lượng cho sự phát triển vượt bậc. “Đổi mới” là quá trình giải phóng mang ý nghĩa toàn diện của từ đó – giải phóng về nhận thức, tư tưởng, giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của con người, giải phóng mọi khả năng trí tuệ của nhân dân… để phục vụ cho sự phát triển con người, bảo đảm tự do, sáng tạo của nhân dân.
“Đổi mới” cũng là quá trình sửa lại những nhận thức không đúng về “cái cũ” để hiểu đúng nó hơn, vận dụng có hiệu quả hơn vào thực tiễn. “Đổi mới” còn là làm rõ cái gì là đúng của ngày hôm qua, nhưng do hoàn cảnh đã thay đổi, ngày hôm nay không còn thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát lý luận nhằm bổ sung, phát triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng, làm cơ sở hoạch định và triển khai đổi mới, chính sách của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy đất nước phát triển.
Như vậy, “đổi mới” có mục tiêu lý luận và mục tiêu thực tiễn. Về lý luận, “đổi mới” nhằm xác lập hệ thống quan điểm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về thực tiễn, “đổi mới” để xã hội xã hội chủ nghĩa từng bước được hiện thực hóa trong cuộc sống.
Mục tiêu lý luận và thực tiễn đó cũng khẳng định rằng, chúng ta “đổi mới” nhưng không “đổi màu” và “đổi hướng”. Đổi mới để giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức ngày càng đúng đắn hơn và được xây dựng ngày càng có hiệu quả cao hơn. Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là làm cho lý luận đó được nhận thức đúng đắn hơn, vận dụng, phát triển sáng tạo hơn, mang lại hiệu quả thiết thực hơn. Đổi mới cũng không phải là phủ định sạch trơn những nhận thức và cách làm trước đây cùng những thành tựu đã được tạo ra, mà là khẳng định những gì đã nhận thức đúng, làm đúng, giữ lại những giá trị tích cực của quá khứ; chấn chỉnh lại những gì nhận thức chưa thật đúng, làm chưa đúng; đồng thời loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai, những hậu quả do những sai sót đó tạo ra.
Trước khi hình thành đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội VI, đất nước đã trải qua 10 năm trăn trở tìm tòi, thử nghiệm, nhất là ba bước đột phá về đổi mới tư duy kinh tế. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8- 1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên. Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6-1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển hoạt động ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa. Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 8-1986) đã đưa ra kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế: Thứ nhất, Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; Thứ hai, Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Thứ ba, Trong cơ chế quản lý kinh tế lấy kế hoạch làm trọng tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hóa – tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; chính sách phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Ba bước đột phá này đã tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI.
Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước – từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo và phong cách của Đảng, từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội khẳng định: đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Đại hội VI đã đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. Đại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn trong toàn bộ hoạt động của mình: Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới; phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tiến hành đổi mới chính sách kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội; coi sự tác động qua lại giữa hai loại chính sách này là nhân tố cơ bản bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đây là lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, chính sách xã hội và mối tương quan của nó với chính sách kinh tế được đặt đúng tầm. Đại hội còn nhấn mạnh phải làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, đẩy lùi và xóa bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội; đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Sau Đại hội VI được hai năm, từ cuối năm 1988, công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ngày càng chao đảo. Cùng với các khuyết tật ở chính bản thân mô hình CNXH Xô-viết chậm được khắc phục, việc thực hiện tự do, dân chủ vô nguyên tắc, đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập, phủ nhận sạch trơn quá khứ cách mạng; chĩa mũi nhọn phê phán vào Đảng Cộng sản, vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin, gieo rắc những tư tưởng hoài nghi, bi quan, dao động về chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989), cùng với việc tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, Đảng ta đã nêu ra sáu nguyên tắc đổi mới, trong đó nhấn mạnh: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng hơn và có phương pháp phù hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập… Việc khẳng định các nguyên tắc đó đã góp phần ngăn chặn có hiệu quả những tư tưởng hoang mang, dao động; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó, cùng với xác định rõ nội dung và tính chất của thời đại, đã làm nổi bật hai nội dung rất cơ bản: Một là, quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng; hai là, những phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ mới. Cương lĩnh khẳng định vị trí tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. Cương lĩnh xác định Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú, có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực, phẩm chất trong sạch, đủ sức gánh vác công việc của Đảng. Đại hội còn khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; trong đó, kinh tế quốc doanh là chủ đạo, kinh tế quốc doanh cùng kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đại hội chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Đại hội đã trịnh trọng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) tiếp tục phát triển và cụ thể hóa tư tưởng của Đại hội VII, xác định mục tiêu tổng quát của quá trình đổi mới nói riêng, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung, là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hội nghị cũng chỉ ra những nguy cơ mà đất nước phải vượt qua. Đó là: tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tệ tham nhũng và quan liêu; “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Hội nghị đưa ra quan điểm về chủ nghĩa xã hội đất nước trong thời kỳ mới; khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội cũng làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; tiếp tục khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục và đào tạo và khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) là đại hội mở đầu thế kỷ 21 của Việt Nam. Đại hội đã rút ra bốn bài học qua 15 năm đổi mới(1) (1986-2000), định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ 21 với phương hướng tổng quát là: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (điểm mới là có thêm mục tiêu “dân chủ”). Đại hội đã đánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn về vị trí, vai trò và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội nhấn mạnh tính khó khăn, phức tạp của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ; khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ. Đại hội một lần nữa làm rõ vai trò động lực to lớn của đại đoàn kết toàn dân, của vấn đề dân chủ, của việc quan tâm tới lợi ích chính đáng của con người; chỉ ra nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay: đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Đại hội nâng thành đường lối đối ngoại lên mức cao hơn, toàn diện hơn: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Đường lối này đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX với cách nhìn nhận mới và thống nhất về các vấn đề đối tác và đối tượng, định hướng cho chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới.
Đại hội X của Đảng (4-2006) tổng kết 20 năm đổi mới, đã nhận định: nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành những nét cơ bản. Đại hội đã có sự bổ sung và phát triển một số nội dung của Cương lĩnh về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và những phương hướng để đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đề ra chủ trương tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
(Còn nữa)
(1) Một là, trong quá trình đổi mới kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Ý kiến ()