Cơ hội và thách thức cho ngành dệt may
Vòng đàm phán thứ 18 của Hiệp định Ðối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) mới đây đã kết thúc tại Ma-lai-xi-a và Hiệp định quan trọng này đang tiến dần tới những vòng đàm phán cuối cùng để được chính thức ký kết.
– Vòng đàm phán thứ 18 của Hiệp định Ðối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) mới đây đã kết thúc tại Ma-lai-xi-a và Hiệp định quan trọng này đang tiến dần tới những vòng đàm phán cuối cùng để được chính thức ký kết.
TPP được các doanh nghiệp (DN) dệt may Việt Nam đặt nhiều kỳ vọng khi mở ra cơ hội tăng trưởng xuất khẩu, tăng giá trị gia tăng của sản phẩm… Tuy nhiên, cũng không ít thách thức mới đang đặt ra đối với các DN này.
Cơ hội tăng trưởng xuất khẩu
Hoa Kỳ và Nhật Bản là những thị trường xuất khẩu lớn của ngành dệt may Việt Nam. Ðây cũng chính là hai nước thành viên trong TPP. Năm 2012, mặc dù nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của các thị trường này đều giảm nhưng kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước ta vào Hoa Kỳ vẫn tăng 9,2%, vào Nhật Bản tăng 19,3%. Sáu tháng đầu năm nay, dù tiếp tục đối mặt với những khó khăn, nhưng ngành dệt may Việt Nam vẫn tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu 14,5% so cùng kỳ, đạt 8,9 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ lớn nhất, chiếm 44,8% tổng kim ngạch toàn ngành, tăng 12% so cùng kỳ; vào thị trường Nhật Bản đạt 1,1 tỷ USD, tăng 24,5%. Những tín hiệu tăng trưởng khả quan nêu trên đã khẳng định vị thế cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới, đặc biệt là tại Hoa Kỳ, Nhật Bản… Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may nước ta sẽ tiếp tục gia tăng vào hai nước thành viên TPP này sau khi TPP được ký kết và có hiệu lực.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas), Phó Tổng giám đốc (TGÐ) thường trực Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) Lê Tiến Trường, người trực tiếp tham gia đoàn đàm phán của Việt Nam cho biết: “Hiệp định TPP nếu được ký sẽ là cú hích mới cho các DN dệt may Việt Nam phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Số lượng ở đây hàm ý quy mô sản xuất và xuất khẩu, còn chất lượng là sự hoàn thiện hơn trong hệ thống sản xuất, kinh doanh, cải thiện giá trị gia tăng của sản phẩm dệt may Việt Nam. Khi Hiệp định TPP có hiệu lực thì về cơ bản, các loại hàng hóa xuất, nhập khẩu của các nước thành viên TPP sẽ được ưu đãi thuế quan, trong dài hạn thuế quan có khả năng về mức 0%. Ðây chính là lợi thế để hàng dệt may Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao hơn so với một số nước như Trung Quốc, Băng-la-đét…, những nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới nhưng không phải là thành viên của TPP.
Một trong những điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế quan vào thị trường các nước thành viên TPP là các DN Việt Nam phải chứng minh lô hàng xuất khẩu có xuất xứ nguyên liệu, phụ liệu từ sợi trở đi (không tính xuất xứ bông) được sản xuất tại Việt Nam hoặc tại các nước thành viên TPP. Theo Vitas, hiện nay đang có làn sóng đầu tư vào Việt Nam để sản xuất sợi, vải, phụ liệu cho ngành dệt may nhằm hưởng ưu đãi thuế. Ðây cũng chính là cơ hội để ngành dệt may nước ta tranh thủ phát triển sản xuất nguyên, phụ liệu trong nước. Ðã có rất nhiều nhà đầu tư nhanh chân đến Việt Nam tìm cơ hội hợp tác đầu tư trong lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu dệt may để đón đầu TPP như các tập đoàn Texhong (Hồng Công), Mitsui (Nhật Bản), Sunrise (Trung Quốc)… Thí dụ Công ty Kyungbang (Hàn Quốc) vừa đưa vào hoạt động cơ sở sản xuất sợi tại tỉnh Bình Dương, với vốn đầu tư giai đoạn một là 40 triệu USD, công ty này tiếp tục đầu tư thêm 160 triệu USD để tăng năng lực sản xuất sợi với kỳ vọng trở thành nhà máy sợi lớn nhất châu Á. Texhong bắt đầu đưa nhà máy dệt nhuộm có vốn đầu tư 300 triệu USD ở Quảng Ninh đi vào hoạt động, với 370 nghìn cọc sợi, với công suất 139 nghìn tấn/năm. Làn sóng đầu tư nước ngoài này sẽ tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp hỗ trợ dệt may Việt Nam vốn đang vừa yếu, vừa thiếu.
Tăng năng lực cạnh tranh
Phó Chủ tịch Lê Tiến Trường nêu rõ: Ðối với một ngành tham gia xuất khẩu chủ lực như dệt may Việt Nam thì việc hội nhập sâu, rộng với các thị trường lớn trên thế giới chắc chắn sẽ có tác động tích cực trong việc tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên cơ hội cũng đi kèm thách thức. DN dệt may Việt Nam muốn tận dụng hiệu quả cao nhất TPP thì phải hình thành chuỗi cung ứng bên trong, có sự liên kết hữu cơ giữa các khâu. Một chuỗi cung ứng hoàn chỉnh từ thiết kế – nguyên, phụ liệu – may – phân phối phải được hình thành trong cộng đồng các thành viên tham gia ký kết Hiệp định TPP. Các DN cũng không nên tận dụng TPP như một cứu cánh để phát triển trong ngắn hạn, mà quan trọng hơn là cần tận dụng tốt cơ hội này để gia tăng năng lực cạnh tranh, xây dựng chiến lược phát triển bền vững.
Thách thức lớn nhất đối với các DN dệt may Việt Nam hiện nay là làm thế nào tiếp cận thị trường các nước TPP trong khi nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam lại chủ yếu nhập khẩu từ các nước ngoài TPP. Bên cạnh đó, các DN cũng sẽ phải đối mặt với nguy cơ từ việc mở cửa thị trường trong nước cho các nước thành viên TPP vào Việt Nam. Nội tại ngành dệt may Việt Nam vẫn còn những hạn chế, chưa thật sự bền vững, chưa thực hiện được chuỗi cung ứng cho mình. Thực trạng này dẫn đến những điểm yếu của ngành. Ðó là tỷ trọng tích lũy của ngành chưa cao; các DN dệt may chủ yếu mới đáp ứng nhu cầu về khâu may (là khâu đầu tư thấp, dễ dịch chuyển). Hiện nay, nguyên phụ liệu của ngành mới đạt tỷ lệ nội địa hóa khoảng 50%, còn lại vẫn phải phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài. Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty May Ðồng Nai Bùi Thế Kích cho biết, Tổng công ty phải nhập khẩu 55% nguyên liệu từ nước ngoài. Với phụ liệu, tỷ lệ nhập khẩu ít hơn, chỉ khoảng 30%. Như vậy, bình quân Công ty May Ðồng Nai phải sử dụng từ 40 đến 45% nguyên, phụ liệu nước ngoài. Do đó, để đưa sản phẩm của DN vào thị trường các nước thành viên TPP thì DN phải tìm nguồn cung ứng nguyên, phụ liệu trong nước, từ các nước trong TPP cũng như tìm nguồn liên kết chuỗi cung ứng.
Tập trung đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may chính là giải pháp quan trọng giúp các DN dệt may trong nước nắm bắt và tận dụng được cơ hội TPP mang lại. Sáu tháng đầu năm nay, Vinatex liên tục đưa vào hoạt động Nhà máy sợi Vinatex – Hồng Lĩnh với quy mô 30 nghìn cọc sợi; Dự án sợi Phú Bài 2, quy mô 15 nghìn cọc sợi; Tăng năng lực dệt vải cho Nhà máy dệt Yên Mỹ; Tổng công ty Phong Phú tăng năng lực dệt nhuộm hoàn tất… Bên cạnh đó, để đáp ứng tỷ lệ nội địa hóa nguyên, phụ liệu, ngành ưu tiên kêu gọi các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài có thế mạnh về sản phẩm đang thiếu hụt như nguyên liệu xơ visco, polyester; đầu tư vào các vùng trồng cây nguyên liệu; phát triển mối quan hệ hợp tác với các nhà sản xuất có công nghệ dệt may tiên tiến. Cùng với việc quan tâm đào tạo nguồn lực đáp ứng nhu cầu phát triển thị trường, Vinatex tập trung thực hiện các giải pháp hoạch định thị trường khi TPP triển khai áp dụng, tận dụng cơ hội phát triển các sản phẩm có tính cốt lõi của Tập đoàn. Ðặc biệt xây dựng chiến lược phát triển liên kết nội khối tạo chuỗi sản xuất lớn để có khả năng nhận những đơn hàng lớn; thời trang hóa ngành dệt may, xây dựng và đẩy mạnh hoạt động các trung tâm thiết kế thời trang. Ðào tạo tuyển dụng đội ngũ nhà thiết kế có năng lực. Chào bán mẫu thiết kế cho các nhà nhập khẩu và xây dựng thương hiệu hàng hóa và bán sản phẩm thời trang của Vinatex ra nước ngoài. Không chỉ vậy, Vinatex cũng tập trung xây dựng giải pháp chiến lược về quản trị, tiết kiệm chi phí, tạo sản phẩm cạnh tranh tốt về chất lượng, thời gian giao hàng, trách nhiệm xã hội của sản phẩm…
TPP là cơ hội cho phát triển do vậy cần có quy hoạch phát triển dệt may trong nước nhất là về nguồn lực vì đây là ngành sử dụng nhiều lao động. Cần công khai và có cam kết của các địa phương để tận dụng cơ hội từ hiệp định này. Khi quy mô sản xuất tăng, sự phân bố các khu vực nhà máy sản xuất cũng tăng, đòi hỏi hệ thống hạ tầng nối các khu trung tâm thiết kế với khu vực sản xuất, trung tâm ICD (cảng nội địa), và cảng biển phải hoàn thiện. Những chính sách trong kêu gọi đầu tư vào dệt may, với cả đối tác trong nước và nước ngoài đều phải quan tâm đến trình độ công nghệ, môi trường cho dự án đầu tư, bảo đảm dự án đầu tư mới phải sử dụng công nghệ tốt, bền vững, lâu dài, tránh tình trạng dịch chuyển công nghệ cũ, lạc hậu về Việt Nam.
Theo Nhandan
Ý kiến ()