Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu lên các phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và chỉ rõ: Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn. Dưới đây, xin trình bày nội dung các mối quan hệ lớn.Một là, mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triểnĐảng ta xác định đổi mới là động lực; ổn định là điều kiện, tiền đề; phát triển nhanh và bền vững là mục đích. Đổi mới, ổn định và phát triển đều do con người và vì con người. Con người vừa là mục đích vừa là chủ nhân của đổi mới, ổn định và phát triển.Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng yếu tố đổi mới, ổn định và phát triển và chỉ đạo thành công việc tạo dựng các yếu tố này để đưa đất nước tiến lên. Nhưng việc thực thi mối quan hệ này chưa tốt. Thứ nhất, đổi mới được tiến hành liên tục, nhưng chưa đồng bộ, có những mặt, lĩnh vực thiếu kịp...
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu lên các phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và chỉ rõ: Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn. Dưới đây, xin trình bày nội dung các mối quan hệ lớn.
Một là, mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển
Đảng ta xác định đổi mới là động lực; ổn định là điều kiện, tiền đề; phát triển nhanh và bền vững là mục đích. Đổi mới, ổn định và phát triển đều do con người và vì con người. Con người vừa là mục đích vừa là chủ nhân của đổi mới, ổn định và phát triển.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng yếu tố đổi mới, ổn định và phát triển và chỉ đạo thành công việc tạo dựng các yếu tố này để đưa đất nước tiến lên. Nhưng việc thực thi mối quan hệ này chưa tốt. Thứ nhất, đổi mới được tiến hành liên tục, nhưng chưa đồng bộ, có những mặt, lĩnh vực thiếu kịp thời nên kết quả thu được còn hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước. Thứ hai, yếu tố ổn định cần được bảo đảm ngay cả trong những lúc khó khăn, tuy nhiên, ở một số nơi cứng nhắc trong việc ổn định theo kiểu hành chính. Quá “coi trọng” ổn định nên không dám đổi mới mạnh mẽ. Thứ ba, yếu tố phát triển luôn được quan tâm nhưng chưa đi vào chiều sâu, chưa trở thành lẽ sống của toàn xã hội, nhiều vấn đề lý luận về phát triển chưa được làm sáng tỏ; cơ chế, chính sách kinh tế chưa đủ rõ, chưa kịp thời đã dẫn đến thiếu sự thống nhất cần thiết trong hành động và ảnh hưởng không nhỏ đến ý chí phát triển của người dân cũng như tạo ra tâm lý chần chừ, thiếu hăng hái trong đầu tư phát triển. Vì thế, cần phải xử lý tốt hơn mối quan hệ này.
Hai là, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
25 năm qua, tư duy của Đảng ta về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng phát triển. Đại hội VI xác định bắt đầu từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI chỉ rõ: Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Đại hội VII xác định: Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Đến Đại hội VIII, Đảng đã rút ra bài học: Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị; đổi mới chính trị song phải giữ vững ổn định chính trị. Đến Đại hội X Đảng ta một lần nữa xác định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Thực tế 25 năm qua, chúng ta đã từng bước đổi mới chính trị, mà trọng tâm là đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhưng trong quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, chúng ta còn có những hạn chế. Lý luận về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chưa thật rõ. Trong thực tế, đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế. Đã đến lúc đòi hỏi Đảng cần xác định rõ mối quan hệ giữa kinh tế và đổi mới chính trị phù hợp với giai đoạn hiện nay, khi nước ta đã trải qua 25 năm đổi mới, khắc phục một số biểu hiện lo mất ổn định, không dám mạnh dạn đổi mới chính trị cho đồng bộ với đổi mới kinh tế.
Ba là, mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa
Điểm đột phá trong nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là ở chỗ, đã khẳng định kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu chung của nhân loại; khẳng định phải sử dụng kinh tế thị trường như một phương tiện chính yếu, tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
25 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết ngày càng tốt hơn mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều dần được hình thành. Giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn có sự không đồng thuận trong nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường chưa được giải quyết hợp lý. Tốc độ tăng trưởng cao, nhưng chất lượng tăng trưởng và hiệu quả thấp. Quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội còn có những bất cập. Điều đó đòi hỏi phải nhận thức rõ và thống nhất các quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
25 năm qua, Đảng có sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đảng ta chủ trương từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh các mặt cấu thành quan hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ sở hữu, để bảo đảm sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, giải phóng và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Những đổi mới đã mang lại sức sống mới cho nền kinh tế, tạo những bước phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế và xã hội: tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, liên tục trong thời gian dài, cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện, an sinh xã hội được chú trọng, xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tích cực, v.v…
Tuy nhiên, đến nay vẫn còn một số điểm chưa có sự đồng thuận trong tư duy nhận thức và quan điểm chủ trương liên quan đến mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trong thực tế, tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng thấp; năng lực cạnh tranh ở cả cấp độ quốc gia, sản phẩm và doanh nghiệp đều còn thấp. Điều đó đòi hỏi, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phát triển đa dạng các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với tính chất đa dạng của các hình thức sở hữu và với xu hướng liên kết giữa các chủ thể sở hữu.
Năm là, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Trong 25 năm qua, Đảng ta luôn luôn chú ý đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, từng bước đề ra những quan điểm, chủ trương và giải pháp kịp thời, đúng đắn để xử lý mối quan hệ này một cách hợp lý. Nhà nước đã có nhiều chủ trương và giải pháp tích cực để thể chế hóa quan điểm gắn kết tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng lĩnh vực và từng địa phương. Việc gắn kết văn hóa với phát triển kinh tế đã bước đầu thu được kết quả tích cực, góp phần làm động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, nhận thức của một số cơ quan, đơn vị thiếu nhất quán, chưa rõ vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế – xã hội. Từ đó, đòi hỏi phải thường xuyên nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là cho các cơ quan lãnh đạo và quản lý, cơ quan hoạch định chính sách kinh tế – xã hội, các doanh nghiệp về vai trò cần thiết của sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển, kiên quyết đấu tranh chống lại xu hướng tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, tách rời mục tiêu kinh tế với mục tiêu văn hóa và xã hội. Cùng với ưu tiên đổi mới về kinh tế, cần phải tập trung vào phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo môi trường tinh thần lành mạnh cho quá trình phát triển kinh tế.
Sáu là, mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
25 năm qua, nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Đến Hội nghị Trung ương 8 khóa IX , Đảng ta chỉ rõ: Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, quy luật đó được biểu hiện tập trung trong hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta cũng nhận thức rõ: bảo vệ không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, nhất là phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế; xây dựng phải đi đôi với đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và của “tự diễn biến”, “tự chuyển biến” trong nội bộ là những vấn đề rất quan trọng trong nhận thức và giải quyết quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những thành tựu quan trọng trong giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng đối ngoại, là kết quả cụ thể của việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Do đó, cần thống nhất nhận thức trong toàn xã hội và cụ thể hơn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xác định rõ, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai mặt hoạt động diễn ra trong mỗi tổ chức, mỗi con người, mỗi ngành, mỗi cấp, trong mỗi lĩnh vực hoạt động.
Bảy là, mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Đến Đại hội VIII, Đảng ta mở rộng một cách toàn diện vấn đề độc lập, tự chủ từ nâng cao ý thức độc lập, tự chủ đến yêu cầu tạo lập được một vị thế độc lập tự chủ, bao gồm độc lập, tự chủ về kinh tế, quốc phòng, an ninh, sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập và tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế. Chủ trương “gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập và tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế” được đặc biệt nhấn mạnh tại Đại hội IX của Đảng (năm 2001), trong đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Độc lập, tự chủ và kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ.
Thực tiễn hội nhập quốc tế của đất nước trong quá trình đổi mới đã cung cấp những bài học quý báu, cả thành công và chưa thành công của Đảng ta, trong việc xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, lý luận vẫn chưa giải đáp được đầy đủ, rõ ràng quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức cho rõ mối quan hệ này, đặc biệt là phải nhanh nhạy trong xử lý để vẫn giữ được độc lập, tự chủ khi chúng ta tăng cường hội nhập sâu vào quốc tế.
Tám là, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
25 năm qua, nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ngày càng phát triển: (1) Bản chất, đặc trưng và nội dung mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân được xác định và thể hiện bởi bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; (2) Đảng ta ngày càng nhận thức rõ bản chất và vai trò của dân chủ xã hội chủ nghĩa, của quyền làm chủ của nhân dân và khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là động lực phát triển của xã hội, là mục tiêu quan trọng của đổi mới; (3) Điểm mấu chốt trong đổi mới chính trị nước ta là đổi mới mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân theo các yêu cầu, đòi hỏi của dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; (4) Đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ phải được tiến hành đồng bộ, thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị, trong tổ chức và hoạt động của mỗi tổ chức thuộc hệ thống chính trị, đồng bộ ở tất cả các cấp, từ trung ương đến cơ sở, đổi mới từ trong Đảng, Nhà nước đến xã hội.
Trong thực tiễn, Đảng giữ vững được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước, thông qua Nhà nước, nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội ngày càng tốt hơn. Đã giải quyết ngày càng tốt hơn quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước, còn có tình trạng bao biện, chồng chéo và buông lỏng nên chưa phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy Nhà nước. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân chậm đổi mới. Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi còn bị vi phạm nghiêm trọng.
Từ đó, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới nhận thức và thực hiện tốt mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” phù hợp với đặc điểm của thời kỳ mới ở nước ta, trong đó, nhân dân làm chủ – yếu tố trung tâm của mối quan hệ trên; sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đều xuất phát từ nhu cầu dân chủ của người dân, phục vụ lợi ích của nhân dân và là những bảo đảm quan trọng để nhân dân thật sự là chủ và thật sự làm chủ.
Theo Nhandan
Ý kiến ()