Chú trọng đầu tư phát triển khoa học - công nghệ
Sản xuất gạch chuyên dụng cho lò nung xi-măng ở Nhà máy gạch chịu lửa kiềm tính. Ảnh: TRẦN HẢI Những năm trước đây, các nhà máy sản xuất xi-măng, luyện kim, thủy tinh... phải nhập khẩu vật liệu chịu lửa kiềm tính (CLKT) để sửa chữa, bảo dưỡng lò nung.Từ khi Nhà máy Vật liệu chịu lửa kiềm tính thuộc Công ty xi-măng Vicem Hoàng Thạch từng bước nghiên cứu, vươn lên làm chủ bí quyết công nghệ sản xuất gạch CLKT thì tình hình đã khác. Nhà máy hiện là đơn vị duy nhất đến thời điểm này tại Việt Nam chuyên sản xuất các loại vật liệu chịu lửa như gạch magnesia-spinel cho công nghiệp xi-măng; gạch magnesia, magnesia carbon cho công nghiệp luyện kim, thủy tinh, hóa chất và các ngành công nghiệp khác; các loại vật liệu đầm, bột vá và vữa chịu lửa. Năm 2011, nhà máy sản xuất hơn 12.500 tấn sản phẩm với các chủng loại gạch đa dạng gồm chín tổ hợp quy cách.Khác với gạch xây thông thường, sản phẩm gạch CLKT của nhà máy được sản xuất để xây lò nung của nhà máy xi-măng, luyện kim, nấu thủy...
Sản xuất gạch chuyên dụng cho lò nung xi-măng ở Nhà máy gạch chịu lửa kiềm tính. Ảnh: TRẦN HẢI |
Từ khi Nhà máy Vật liệu chịu lửa kiềm tính thuộc Công ty xi-măng Vicem Hoàng Thạch từng bước nghiên cứu, vươn lên làm chủ bí quyết công nghệ sản xuất gạch CLKT thì tình hình đã khác. Nhà máy hiện là đơn vị duy nhất đến thời điểm này tại Việt Nam chuyên sản xuất các loại vật liệu chịu lửa như gạch magnesia-spinel cho công nghiệp xi-măng; gạch magnesia, magnesia carbon cho công nghiệp luyện kim, thủy tinh, hóa chất và các ngành công nghiệp khác; các loại vật liệu đầm, bột vá và vữa chịu lửa. Năm 2011, nhà máy sản xuất hơn 12.500 tấn sản phẩm với các chủng loại gạch đa dạng gồm chín tổ hợp quy cách.
Khác với gạch xây thông thường, sản phẩm gạch CLKT của nhà máy được sản xuất để xây lò nung của nhà máy xi-măng, luyện kim, nấu thủy tinh có đường kính từ 2 đến 8 m, chịu được nhiệt độ đến 1.700 độ C, tuổi thọ hoạt động liên tục lên tới khoảng một năm, đòi hỏi kích cỡ sản phẩm có độ chính xác rất cao. Phần lớn nguyên liệu sản xuất gạch này phải nhập ngoại vì trong nước chưa khai thác hoặc không có nguồn. Loại gạch CLKT còn phải tuân thủ khắt khe thời hạn sử dụng bởi sau khi sản xuất, nếu lưu kho quá một năm mà không xây lò thì gạch không sử dụng được vì hiện tượng hi-đrát hóa (hút ẩm), làm thay đổi các tính chất hóa lý của gạch. Vì thế, các lô hàng xuất xưởng đều đóng ngày tháng sản xuất và thời hạn sử dụng.
Việc khách hàng trong nước chuyển từ nhập khẩu sang sử dụng sản phẩm của nhà máy cũng là một bước tiến dài, bởi trước đây, chẳng ai mạo hiểm muốn đầu tư dây chuyền để làm những sản phẩm đòi hỏi khắt khe về chất lượng như vậy. Cũng chẳng lãnh đạo doanh nghiệp nào dám mạo hiểm mua những sản phẩm trong nước nếu như chưa được kiểm chứng thực tế mà “an toàn” nhất là nhập ngoại bởi với một nhà máy xi-măng, nếu chẳng may một viên gạch CLKT hỏng, bong tróc trong quá trình vận hành lò nung gây ra sự cố thì mỗi ngày phải dừng lò để sửa chữa có thể thiệt hại nhiều tỷ đồng. Sau một thời gian dài vừa làm, nắm bắt công nghệ chuyển giao, vừa rút kinh nghiệm, đến nay, đội ngũ chuyên gia kỹ thuật của nhà máy đã làm chủ bí quyết công nghệ của Hoa Kỳ, mà mấu chốt là bài toán phối liệu để làm ra các sản phẩm cũng như các chế độ công nghệ. Sản phẩm của nhà máy được sử dụng thành công tại chính các lò nung hiện đại của Công ty xi-măng Vicem Hoàng Thạch, một đơn vị đi đầu của Tổng Công ty Công nghiệp xi-măng Việt Nam (Vicem) nhiều năm qua, là minh chứng rõ ràng nhất về chất lượng và sự mạnh dạn sử dụng hàng nội.
Có một điều thuận lợi là các chuyên gia của nhà máy vốn là những người làm xi-măng, am hiểu chế độ công nghệ nung luyện, tính chất của từng khu vực lò, từ đó áp dụng vào thực tiễn nghiên cứu, sản xuất ra từng loại gạch phù hợp cho từng loại lò. Nhà máy đã chú trọng gửi cán bộ, chuyên gia sang đào tạo ở nước ngoài, làm tốt công tác chuyển giao công nghệ phức tạp, rút kinh nghiệm ngay từ những ngày đầu chế thử sản phẩm. Bên cạnh đó, đơn vị đã chú trọng đầu tư các thiết bị khoa học công nghệ, nhất là phòng KCS kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm như hệ thống phòng gia công mẫu, thiết bị kiểm tra cường độ nén nguội, kiểm tra nhiệt độ dưới dạng tải trọng, thiết bị kiểm tra chỉ tiêu uốn nóng, phân tích thành phần hóa học…; cập nhật những phần mềm điều khiển mới nhất trong dây chuyền công nghệ. Đơn vị cũng tích cực nghiên cứu, nắm bắt công nghệ mới trong các ngành sản xuất để đưa ra thị trường những sản phẩm mới phù hợp yêu cầu khắt khe của khách hàng. Nhờ đó, nhà máy đã chủ động kiểm soát chặt chẽ sản phẩm xuất xưởng. Mặc dù, nguồn vốn đầu tư hạn hẹp, song lãnh đạo nhà máy quyết tâm từng bước nâng cấp thiết bị công nghệ, trước mắt sẽ nâng cấp hệ thống lò nung để đáp ứng yêu cầu mới. Cùng với sản xuất, nhà máy cũng đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường, đồng thời tiết kiệm năng lượng bằng cách tận dụng nhiệt thải của lò nung để sấy nguyên liệu, đầu tư xây dựng hệ thống khử bụi, làm sạch khí thải, giữ gìn cảnh quan môi trường…
Nhờ đơn vị sản xuất ổn định và đáp ứng đa dạng chủng loại sản phẩm, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế với giá cả rất cạnh tranh, nên các nhà máy trong nước đã biết tiếng, sử dụng nhiều sản phẩm, chủ động được vật liệu xây lò nung, giảm bớt áp lực nguồn ngoại tệ để nhập khẩu, chủ động được thời gian sửa chữa, bảo dưỡng. Sản phẩm của nhà máy hiện chiếm tới 70% thị phần gạch CLKT ở Việt Nam.
Theo Nhandan
Ý kiến ()