Cho chủ thể phạm tội tham nhũng, kinh tế khắc phục hậu quả để giảm xử lý hình sự: Nên hay không?
Cần nghiên cứu tăng các biện pháp phòng ngừa, tạo điều kiện cho chủ thể phạm tội tham nhũng, kinh tế khắc phục hậu quả để giảm xử lý hình sự, thay thế bằng khởi kiện dân sự. Cách làm này vừa hiệu quả trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực, vừa nhân văn và thuyết phục.
Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, giai đoạn 2012-2022 vừa được Bộ Chính trị tổ chức, đồng chí Lê Minh Trí, Ủy viên Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kiến nghị Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương cho chủ trương giao Ban Nội chính Trung ương hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu đề xuất cách làm theo hướng tăng phòng ngừa, giảm xử lý hình sự mà thay thế bằng khởi kiện dân sự và tạo điều kiện cho chủ thể sai phạm khắc phục hậu quả.
Theo đồng chí Lê Minh Trí, làm như vậy chúng ta sẽ thu hồi tài sản Nhà nước bị tham nhũng, thất thoát và việc khắc phục hậu quả sẽ tốt hơn nhiều do chủ thể vi phạm sẽ chủ động khắc phục để họ không bị xử lý hình sự nữa và chúng ta cũng không phải xử lý hình sự nhiều. Cách làm này vừa hiệu quả trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực, vừa nhân văn và thuyết phục.
Đề xuất của đồng chí Lê Minh Trí đã thu hút sự quan tâm của dư luận, trên báo chí nhiều chuyên gia pháp luật, luật sư, đại biểu Quốc hội, nhà quản lý,… đã chia sẻ quan điểm của mình về vấn đề này.
ĐỀ XUẤT HỢP LÝ
Nêu quan điểm trên báo Dân Việt, Luật sư Trương Quốc Hòe, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cho rằng, việc đề xuất để cán bộ sai phạm khắc phục hậu quả để xem xét không khởi tố là hợp lý.
Theo Luật sư Trương Quốc Hòe, Bộ luật hình sự năm 2015 đã thể hiện rõ quan điểm “chú trọng tới các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng” được nêu tại Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X).
Theo đó, Điều 29 của Bộ luật này quy định người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được nhà nước và xã hội thừa nhận.
Thêm vào đó, Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 quy định, người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng thì được xem xét giảm hình thức kỷ luật, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật” (khoản 4, Điều 92).
Luật sư Trương Quốc Hòe cho rằng, nếu có thể thực hiện được đề xuất trên, kết quả đạt được là chúng ta có thể thu hồi được tài sản thất thoát của Nhà nước một cách nhanh nhất, không gây lãng phí thời gian và tiền bạc của các cơ quan tiến hành tố tụng, hơn hết còn thể hiện được sự nhân văn rất cao.
Tuy nhiên, để thực hiện được điều đó, hệ thống pháp luật của chúng ta cần chặt chẽ, hoàn thiện hơn để tránh những sự lợi dụng vào việc “khắc phục hậu quả” để trốn tránh trách nhiệm.
Như vậy, có thể thấy rõ mục tiêu của Đảng, Nhà nước hướng đến là việc các cán bộ có vi phạm tự nhận ra những sai phạm của bản thân và tích cực khắc phục hậu quả, đây là tinh thần nhân đạo rất lớn của Đảng.
Những văn bản chỉ đạo nói trên thể hiện quyết tâm chính trị, quá trình hoàn thiện thể chế pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ta những năm qua. Từ đó cho thấy sự tôn nghiêm của pháp luật, nhưng cũng rất nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước đối với người phạm tội biết ăn năn hối lỗi, trả lại tài sản tham nhũng.
PHẢI XỬ LÝ NGHIÊM MINH DÙ LÀ THAM NHŨNG VẶT HAY LÀ THAM NHŨNG LỚN
Chia sẻ quan điểm của mình Tiến sĩ luật học Đặng Văn Cường cho rằng, nếu chỉ thu hồi tài sản và “hành chính hóa”, “dân sự hóa” hành vi tham nhũng sẽ không đảm bảo hiệu quả mà cần phải tiếp tục phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh với mọi hành vi tham nhũng dù là tham nhũng vặt hay tham nhũng lớn.
Theo TS. Đặng Văn Cường, phần lớn các hành vi tham nhũng ở Việt Nam được xác định là tội phạm, được quy định trong bộ luật hình sự.
Người thực hiện hành vi tham nhũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, phải bị áp dụng chế tài hình sự trong đó có nhiều tội danh quy định mức hình phạt cao nhất là tử hình.
Về mặt lý luận thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến khách thể mà pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi cấu thành tội phạm kể từ thời điểm thực hiện các hành vi theo điều luật mô tả.
Pháp luật quy định, không xét xử oan sai, cũng không bỏ lọt tội phạm. Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp. Kết án oan người vô tội cũng là hành vi vi phạm pháp luật.
Bởi vậy, việc xử lý tội phạm hay không xử lý tội phạm không thể tùy tiện mà phải căn cứ vào quy định pháp luật. Khi hành vi tham nhũng đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm, phải xử lý.
Nếu không đề cao nhiệm vụ phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mà chỉ chú trọng đến việc thu hồi tài sản, có thể còn làm tăng nguy cơ tham nhũng.
Vì nếu những người có chức vụ quyền hạn tham nhũng mà bị phát hiện, chỉ phải nộp lại tài sản, không bị xử lý hình sự, họ sẽ không sợ và có thể càng cũng cố quyết tâm thực hiện hành vi tham nhũng đến cùng.
“Để phòng chống tham nhũng hiệu quả thì phải hướng đến những mục tiêu làm sao cho người có chức vụ quyền hạn không cần tham nhũng, không muốn tham nhũng, không thể tham nhũng và không dám tham nhũng”, TS. Đặng Văn Cường nhấn mạnh.
TS. Đặng Văn Cường cũng cho rằng, việc học tập kinh nghiệm phòng chống tham nhũng ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực châu Á và Đông Nam Á là rất quan trọng và cần thiết.
Tuy nhiên, vẫn phải trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, trong đó có nguyên tắc là mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm, phải xử lý hình sự, không để oan sai và không bỏ lọt tội phạm. Nên hướng đến mục tiêu là không nên hình sự hóa quan hệ dân sự kinh tế cũng không nên hành chính hóa, dân sự hóa quan hệ hình sự.
Từ những lý lẽ trên, TS. Đặng Văn Cường nhấn mạnh, người có chức vụ quyền hạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý hình sự thì phải xử lý hình sự chứ không thể thỏa thuận với họ về việc nộp tài sản là được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy luật pháp sẽ không còn nghiêm minh.
PHẢI QUY ĐỊNH THẬT CHẶT CHẼ, TRÁNH “HY SINH ĐỜI BỐ CỦNG CỐ ĐỜI CON”
Trao đổi về vấn đề này trên báo Tuổi trẻ, Trung tướng Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho rằng: Kiến nghị của viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao liên quan đến việc ưu tiên thu hồi tài sản, giảm xử lý hình sự rất đáng được xem xét và cần có sự phân hóa việc bồi thường, hoàn trả của các chủ thể vi phạm được thực hiện vào lúc nào. Kiến nghị này cũng thể hiện sự thay đổi về nhận thức trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Trung tướng Trần Văn Độ cho biết, ngay khi thảo luận xây dựng Bộ luật hình sự năm 2015, ông đã nêu rõ quan điểm đối với tội phạm tham nhũng quan trọng là phải có biện pháp để thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát.
Cụ thể, để thực hiện được điều đó thì việc nhận thức, tự nguyện khắc phục hậu quả từ phía người có hành vi tham nhũng là cực kỳ quan trọng.
Đồng thời, để khuyến khích được điều này thì việc trả hay nộp lại tài sản tham nhũng, gây thất thoát cần có ý nghĩa về mặt pháp lý hình sự theo 4 mức.
Mức 1: Nếu tham nhũng nhưng khi vụ án chưa được phát hiện mà người có hành vi này đã trả, nộp lại toàn bộ tài sản tham nhũng thì cần xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mức 2: Khi đã bị phát hiện, đang điều tra mà trả lại tài sản tham nhũng thì có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ đặc biệt như có thể được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay phạt án treo.
Mức 3: Nếu trong quá trình xét xử mà người có hành vi tham nhũng bồi thường, trả lại một phần hay toàn bộ số tiền tham nhũng thì có thể được giảm nhẹ hình phạt.
Mức 4: Nếu khi tòa kết án rồi mà người có hành vi tham nhũng nộp lại toàn bộ tài sản tham nhũng có thể được cân nhắc giảm án, tha tù.
Không ít nước trên thế giới đều thực hiện như vậy và nếu làm theo 4 mức khuyến khích này thì sẽ là cơ hội để thu hồi tài sản tham nhũng được lớn hơn, tránh tình trạng như dân gian vẫn nói là “hy sinh đời bố củng cố đời con”.
TRÁNH ĐỂ DƯ LUẬN NÓI “HUỀ CẢ LÀNG”
Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa, Phó Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh Đồng Tháp cho rằng: Trong các vụ án tham nhũng, việc thu hồi tài sản là trọng tâm, cốt lõi.
Với những bị can, người tham nhũng ăn năn hối cải, tự nguyện giao nộp lại tài sản tham nhũng, gây thất thoát thì việc xem xét giảm nhẹ hình phạt là cần thiết.
Tuy nhiên, anh đã tham nhũng phải truy cứu trách nhiệm hình sự, chứ trả tiền lại rồi không truy cứu dễ bị dư luận nói là “huề cả làng”.
Chưa kể là trong tình huống bị phát hiện phải trả lại, nếu không bị phát hiện có thể chiếm đoạt toàn bộ số tài sản của Nhà nước, nhân dân.
Đại biểu Phạm Văn Hòa cho rằng, với kiến nghị của Viện trưởng Lê Minh Trí, hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể nên nếu muốn làm thì phải sửa các quy định của pháp luật.
Do đó, các cấp thẩm quyền cần nghiên cứu thật kỹ, để cho ý kiến, sau đó trình Quốc hội xem xét chỉnh sửa pháp luật. Song phải tính toán phù hợp vào từng trường hợp vụ án cụ thể chứ không thể đưa tất cả các vụ án như nhau, đại biểu Phạm Văn Hòa nêu quan điểm.
XỬ LÝ NGHIÊM MINH NHƯNG KHÔNG CÓ NGHĨA CÁI GÌ CŨNG BẮT BỎ TÙ
Theo ông Phạm Trọng Đạt, nguyên Cục trưởng Cục Phòng, chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ: Việc thu hồi tài sản rất quan trọng trong việc xử lý các vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên, để thu hồi được cao cần có những biện pháp để khuyến khích họ tự nguyện nộp lại tài sản tham nhũng, thất thoát.
Ông Phạm Trọng Đạt cho rằng, kiến nghị của Viện trưởng Lê Minh Trí, chính nhằm mục đích có những biện pháp quy định cụ thể trong luật pháp để khuyến khích những người vi phạm nộp toàn bộ tài sản tham nhũng, đồng thời thể hiện rõ sự khoan hồng của pháp luật.
Theo ông Phạm Trọng Đạt, thực tế, nhiều người phạm tội ở những tội không phải nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng nhận thức ra sai phạm của mình, tự nguyện nộp và khắc phục hậu quả nhưng không có những mức cụ thể quy định trong pháp luật thì rất khó để khuyến khích họ giao nộp tài sản tham nhũng.
Chúng ta xử lý nghiêm minh, mang tính răn đe chung nhưng không có nghĩa cái gì cũng đưa vào xử lý hình sự, bắt bỏ tù.
Với những vụ việc, vụ án trong hoàn cảnh cụ thể, nếu thấy cần thiết, phù hợp, không thuộc diện nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì có thể tạo điều kiện để họ khắc phục hậu quả, làm lại cuộc đời.
Còn đưa họ vào tù, họ phải chấp nhận nhưng sẽ không còn con đường nào khác để lập công chuộc tội, vực dậy.
PHI HÌNH SỰ HÓA CÁC VỤ ÁN KINH TẾ LÀ XU HƯỚNG, NHIỀU NƯỚC ĐANG ÁP DỤNG
Trao đổi trên báo Vnexpress.net, TS. Đinh Văn Minh, Vụ trưởng Pháp chế Thanh tra Chính phủ cho biết: Thời gian qua, kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế có xu hướng tăng dần, nhưng số tài sản thu hồi so với bị chiếm đoạt, thất thoát còn thấp.
Theo báo cáo của Ban Nội chính Trung ương, cơ quan thi hành án dân sự các cấp trong 10 năm qua đã thu hồi 61.000 tỷ đồng, đạt 34,7%, trong đó chỉ riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã thu hồi được gần 50.000 tỷ đồng, đạt 41,3%.
Do đó, khuyến khích tội phạm tham nhũng, kinh tế khắc phục hậu quả để tăng tỷ lệ thu hồi tài sản, hạn chế án hình sự là cần thiết. Phi hình sự hóa các vụ án kinh tế là xu hướng, nhiều nước đang áp dụng. Tất nhiên những vi phạm nghiêm trọng vẫn phải xử lý hình sự.
Việc thay phạt tù bằng phạt tiền đã được luật định và đang được áp dụng
Theo TS. Đinh Văn Minh, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) năm 2006 đã nêu rõ: Chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng; áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng.
Nghị quyết cũng đặt vấn đề nghiên cứu sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng khoan hồng hơn đối với người đưa hoặc người nhận hối lộ nhưng tự giác khai báo và nộp lại tài sản trước khi bị phát hiện; chú trọng các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng.
Sau đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thể hiện rõ quan điểm trên. Cụ thể, Điều 40 quy định người bị kết án tử hình về tội Tham ô tài sản, tội Nhận hối lộ mà sau đó chủ động nộp lại ít nhất 3/4 số tiền phạm tội và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm, hoặc lập công lớn thì có thể được giảm xuống chung thân.
Như vậy, việc thay phạt tù bằng phạt tiền đã được quy định trong luật và đang được áp dụng. Như mới đây, ông Nguyễn Đức Chung (cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội) đã được tòa phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt từ 8 xuống 5 năm tù khi người nhà nộp 25 tỷ đồng để khắc phục hậu quả trong vụ mua chế phẩm Redoxy-3C trái quy định, TS. Đinh Văn Minh, dẫn chứng.
Phạt tiền cũng là hình phạt, chứ không phải sự ưu ái
Trao đổi về quan điểm “trả tiền để không ngồi tù có thể khiến xã hội cho rằng pháp luật không nghiêm minh, không công bằng, ưu ái người có tiền”, TS. Đinh Văn Minh cho rằng: Đây là tội phạm về kinh tế nên hình phạt hướng đến trừng phạt mạnh về kinh tế là phù hợp.
Nhiều nước đã cho phép người phạm tội nộp tiền thay cho ngồi tù đối với những hành vi phạm pháp mà việc buộc ngồi tù không cần thiết.
Tội phạm kinh tế khi không bị ngồi tù vẫn có thể lao động, làm nghề có ích, không gây mất an ninh trật tự như tội phạm trộm cắp, cướp giật – tất nhiên là phải chịu sự kiểm soát. Trong khi đó, ngân sách Nhà nước lại thu hồi được tiền thất thoát.
Ví dụ, cầu thủ bóng đá ở một số nước như Tây Ban Nha, Brazil bị kết tội trốn thuế đã nộp tiền thay vì ngồi tù và họ vẫn có thể ra sân phục vụ khán giả.
Theo TS. Đinh Văn Minh, chúng ta cũng cần phân biệt kết tội và thi hành án. Anh vi phạm pháp luật thì sẽ bị kết tội bằng một bản án, nhưng nếu khắc phục hậu quả tốt thì được xem xét giảm nhẹ hình phạt. Tội danh vẫn sẽ nằm trong lý lịch tư pháp chứ không phải là trả tiền rồi trắng án.
Phạt tiền cũng là hình phạt, chứ không phải sự ưu ái. Có thể có người phải đi vay nợ để khắc phục hậu quả, rồi sau đó lao động vất vả để trả nợ. Đó là cái giá phải trả cho tội lỗi của mình.
TS. Đinh Văn Minh cho biết: Cách đây 24 năm, khi xây dựng Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, chúng tôi thậm chí còn kiến nghị với tội phạm tham nhũng, kinh tế, ngoài số tiền bắt buộc phải hoàn trả cho Nhà nước, thì cho phép người phạm tội được trả tiền để thay cho hình phạt tù, ví dụ cứ mỗi năm tù trả một tỷ đồng. Tuy nhiên, vì thời điểm đó còn nhiều ý kiến khác nhau nên đề xuất này chưa được tiếp thu.
Xử phạt phải đạt được mục tiêu, chứ không phải trừng trị cho hả dạ
Theo TS. Đinh Văn Minh: Có người lo là khi cho phép nộp tiền để không phải đi tù thì pháp luật sẽ không đủ răn đe, nhưng chúng ta có thể thấy là dù có phạt tù, hay thậm chí tử hình thì tội phạm tham nhũng vẫn còn. Vì tham nhũng là một trong những khuyết tật bẩm sinh của quyền lực, là lòng tham, là bản ngã của con người.
Xử lý đương nhiên quan trọng, nhưng một nhiệm vụ khác cũng quan trọng là thu lại được tiền cho Nhà nước. Cho nên áp dụng các hình phạt phải đạt được mục tiêu, chứ hình phạt không chỉ là để trừng trị cho hả dạ.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nói, xử lý cán bộ tham nhũng quyết liệt nhưng phải rất nhân văn, mở đường cho người ta tiến chứ không phải vùi dập, đập cho người ta chết, không còn đường sống.
Thực tế, khi các cơ quan Thanh tra làm nhiệm vụ, thấy dự án có thể có sai phạm nhưng cũng phải tính toán, cân nhắc toàn diện xem họ bỏ cả nghìn tỷ đầu tư rồi, nếu để tồn tại thì có phát triển không, mang lại lợi ích xã hội không, sẽ tạo công ăn việc làm cho bao nhiêu người…
Luật Phòng chống tham nhũng của Singapore cũng đánh mạnh vào lợi ích kinh tế của người tham nhũng và đã cho kết quả rất tốt. Theo đó, tòa án có quyền ra lệnh cho người nhận hối lộ nộp một khoản tiền phạt bằng khoản tiền hối lộ bên cạnh các chế tài trừng phạt khác. Khi đó, quan chức, công chức sẽ không được hưởng lợi ích gì từ hành vi tham nhũng nên sẽ không dám tham nhũng.
Cần hoàn thiện chính sách về thu hồi tài sản bị chiếm đoạt
Về biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng, TS. Đinh Văn Minh cho rằng: Sở dĩ tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng của chúng ta thấp vì quy định pháp luật thiếu chặt chẽ.
Các cơ quan chức năng cần hoàn thiện chính sách về thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Trong đó, việc đầu tiên là hoàn thiện thể chế công khai đăng ký tài sản, hạn chế việc lợi dụng khoảng trống pháp lý để tẩu tán, che giấu tài sản.
Các cơ quan phải xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin tài sản đăng ký, đặc biệt là đất đai, tài sản gắn liền với đất. Cần có sự kết nối thông tin giữa cơ quan quản lý tài sản với các cơ quan liên quan như công an, công chứng, ngân hàng, thuế, thi hành án… để theo dõi sự biến động cũng như kịp thời xử lý khi có vi phạm.
Đặc biệt, tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn cần kiểm soát chặt chẽ. Các giao dịch có giá trị lớn của cán bộ, công chức, viên chức, người có chức vụ, quyền hạn phải được thực hiện thông qua ngân hàng để ngăn ngừa giao dịch bất hợp pháp, rửa tiền, tham nhũng.
Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự cũng cần nghiên cứu sửa đổi nội dung để phù hợp với tình hình mới. Ví dụ, phải quy định thu hồi tài sản tăng thêm không giải trình được nguồn gốc và hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp; thời điểm áp dụng các biện pháp phong tỏa tài khoản, kê biên tài sản, số lượng, giá trị các loại tài sản bị kê biên cần linh hoạt.
Pháp luật cũng phải quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, chấp hành viên trong việc áp dụng các biện pháp điều tra để truy nguyên tài sản phạm tội, phong tỏa, kê biên và bán đấu giá tài sản là tang vật của vụ án.
Đồng thời các cơ quan hữu trách cần chú trọng tăng cường hợp tác quốc tế trong xác minh, phong tỏa, thu giữ, chuyển giao tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ Việt Nam ở nước ngoài về cho Nhà nước Việt Nam.
Ý kiến ()