Toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975 là kết quả của cả chặng đường dài chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của mọi người Việt Nam yêu nước; của khối đại đoàn kết 54 dân tộc trên toàn cõi Việt Nam dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hơn 20 năm sau khi cuộc chiến ở Việt Nam kết thúc, trong tác phẩm Nhìn lại quá khứ – tấn thảm kịch và bài học Việt Nam, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra, người đã phục vụ qua hai đời Tổng thống Mỹ là Ken-nơ-đi và Giôn-xơn; người can dự vào việc Mỹ leo thang chiến tranh trên cả hai miền Nam – Bắc Việt Nam, đã thừa nhận sai lầm của nước Mỹ. Theo ông ta, trong cuộc chiến tranh này, nước Mỹ ''đã không nhận ra được những hạn chế của các thiết bị quân sự kỹ thuật cao và hiện đại, lực lượng quân sự và học thuyết quân sự trong sự đối đầu với những trào lưu nhân dân được thúc đẩy cao”; Mỹ đã “đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy nhân dân Việt Nam đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của nó''.
Dù chưa đầy đủ, thậm chí còn lệch lạc trong cách nhìn lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam và nguyên nhân thất bại của Mỹ, thì ý kiến này của ông ta cũng đã phần nào chạm tới một sự thật mà lẽ ra ngay từ những ngày đầu can dự vào Việt Nam và Đông Dương, nhà cầm quyền nước Mỹ đã phải nhận biết để có thể tránh khỏi một cuộc chiến kéo dài và đẫm máu. Sự thật đó chính là: sức mạnh của lòng yêu nước, của “trào lưu nhân dân được thúc đẩy cao” mà thực chất, đấy là khối đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu xây dựng, củng cố theo một đường lối đúng đắn vì độc lập – tự do của Tổ quốc Việt Nam; giữ vững nền hòa bình cho đất nước mình và sự hòa hiếu giữa các dân tộc. Sau này, trong Tổng kết chiến tranh Việt Nam, Bộ Quốc phòng Mỹ đã rút ra kết luận rằng, “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nắm được ngọn cờ dân tộc và chống thực dân”. Giữa những ngày chống Mỹ đầy gian lao, thử thách, Chủ tịch Hồ Chí Minh vững tin vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bởi theo Người, “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”. “Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. “Làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn” ấy, thực chất là sức mạnh của lòng yêu nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sức mạnh ấy là nền tảng vững bền bảo đảm cho dân tộc ta vượt qua bao nhiêu gian nan, thử thách trên dặm dài lịch sử – một lịch sử lắm gian truân, nhọc nhằn nhưng cũng đầy chiến công hiển hách. Sức mạnh ấy đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau ngót 80 năm dưới ách đô hộ của đế quốc, thực dân, từ đây, “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Ý chí, quyết tâm đó của mọi người Việt Nam yêu nước, của toàn thể dân tộc Việt Nam đã được thể hiện rực rỡ trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) và 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 – 1975).
Lần giở những trang sử thời chống Mỹ, đọc những con số, ngẫm nghĩ sự kiện liên quan tới thời kỳ lịch sử này, càng thấm thía hơn những nhân tố làm nên sức mạnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Sức mạnh đó bắt nguồn từ lòng yêu nước, từ niềm tin son sắt của nhân dân vào Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp độc lập dân tộc và CNXH.
Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, tập hợp đông đảo lực lượng yêu nước, gắn bó với dân tộc, không phân biệt giai tầng, địa vị xã hội, tín ngưỡng… nhằm mục tiêu cao cả giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với Cương lĩnh đúng đắn, Chương trình hành động thiết thực, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo lực lượng yêu nước miền Nam, Mặt trận nhanh chóng tập hợp được các lực lượng chính trị, xã hội, đảng phái, tôn giáo yêu nước…
Cuộc chiến đấu bền bỉ và anh dũng của quân và dân ta trên cả hai miền Nam Bắc là biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại mới; biểu thị ý chí, nghị lực, sức mạnh quật cường của cả dân tộc đồng lòng vì nghĩa lớn: Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Sức mạnh to lớn đó của toàn dân, toàn quân Việt Nam đã làm nên những chiến công vang dội: Tết Mậu Thân 1968, Tiến công chiến lược năm 1972, “Điện Biên Phủ trên không”,… Những chiến công ấy của quân và dân ta làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đối phương, buộc đối phương dù còn rất ngoan cố và rất hiếu chiến phải ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam.
Trong lịch sử chống Mỹ, cứu nước, chưa bao giờ chúng ta có điều kiện thuận lợi như những năm sau Hiệp định Pa-ri. Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc đang chuyển biến mau lẹ, “một ngày bằng hai mươi năm”. Chớp thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị Trung ương Đảng hạ quyết tâm động viên sức mạnh cao nhất của cả nước, kiên quyết giải phóng hoàn toàn miền Nam… Hướng ra tiền tuyến lớn, miền Bắc dốc toàn bộ sức mạnh tiềm tàng và to lớn của mình cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy. Trên chiến trường, quân dân ta mưu trí, dũng mãnh tiến công và nổi dậy, nhanh chóng đập tan Quân đoàn 2, Quân khu II địch ở Tây Nguyên; Quân đoàn 1, Quân khu I địch ở các tỉnh ven biển miền Trung. Kế đó, ta nhanh chóng giải phóng các đảo ngoài khơi, đồng thời tập trung lực lượng, hình thành năm cánh quân nhằm vào Sài Gòn. Sau khi đập tan tuyến phòng thủ từ xa của địch ở Phan Rang (16-4), mở toang “cánh cửa thép” Xuân Lộc ở phía Đông, năm cánh quân như năm cánh của ngôi sao chiến thắng mạnh mẽ tiến đánh Sài Gòn. 11 giờ 30 phút trưa 30-4-1975, lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên dinh Độc lập, báo hiệu chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ kính yêu toàn thắng, sự nghiệp giải phóng miền Nam toàn thắng.
Nhìn lại chặng đường đi đến chiến thắng lịch sử 30-4 năm 1975, càng thấm thía và tự hào về sức mạnh toàn dân tộc đoàn kết một lòng, dốc sức đánh giặc vì sự toàn vẹn của non sông, vì khát vọng về nền thái bình bền vững của một nước Việt Nam độc lập, tự do, giàu mạnh. Đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh to lớn và tiềm tàng của khối đại đoàn kết đó là truyền thống tốt đẹp, là nhân tố lớn góp phần làm nên Toàn thắng 30-4 vẻ vang. Bài học phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hôm nay.
Ý kiến ()