Chiến dịch Hồ Chí Minh - 45 năm nhìn lại
Xe tăng Quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975. Ảnh tư liệu |
Lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam có hàng chục cuộc chiến tranh lớn, trong đó rất nhiều cuộc chiến mà nhân dân ta đã kết thúc bằng chiến dịch quân sự với những trận quyết chiến chiến lược vô cùng oanh liệt.
Trong thời hiện đại, chỉ tính từ 1945 đến 1975, nhân dân ta liên tiếp phải chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của hai đế quốc lớn với 42 chiến dịch tiêu biểu, trong đó Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (từ 26 – 30/4/1975) đóng vai trò kết thúc “cuộc chiến tranh” 30 năm giành độc lập, tự do của nhân dân ta.
Chiến dịch Hồ Chí Minh được hình thành và triển khai trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1975.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại trong cuốn hồi ký Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng: “Hội nghị Bộ Chính trị 31/3/1975 đã nhất trí nhận định ta hơn hẳn địch cả về thế chiến lược lẫn lực lượng quân sự, chính trị. Dù Mỹ có tăng viện cũng không thể cứu vãn nguỵ sụp đổ và đánh giá từ cuộc họp ngày 31/3/1975, số phận của chế độ Sài Gòn đã được định đoạt”.
Hồi tưởng của Đại tướng còn có thông tin: Lúc ấy Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ muốn học lại cách đề xuất của cựu Phó Tổng thống Mỹ hồi năm 1954 khi nêu giải pháp duy nhất còn lại lúc này là ném bom nguyên tử, nhưng Tổng thống đương nhiệm của Mỹ sau vụ Watergate lại đang trong tình thế khó xử nên chỉ biết bỏ đi đánh golf suốt cả tuần”.
Trong khi đó, tài liệu Từ Toà Bạch Ốc đến Dinh Độc Lậpcủa Nguyễn Tiến Hưng và Jérold Schecter cho hay: Trong những ngày tàn của chiến tranh thực dân mới, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từng khẩn cầu chữ ‘Tín’ trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ và đặc biệt khẩn cầu lương tâm của nước Mỹ, sau đó xoay sang thách đố ‘có giỏi thì Mỹ vô đây lần nữa’… Nhưng đáp lại cho số phận của Việt Nam Cộng hòa trong cơn hấp hối vẫn chỉ là lời hứa của Tổng thống Mỹ mà thôi.
Lúc này, Quân ủy Trung ương chỉ đạo chuẩn bị mọi mặt cho Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp – người từng cân nhắc chính xác 2 phương án trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 – lần này có lựa chọn khác.
Ông viết trong hồi ký: “Giữa hai phương án cơ bản, một là bao vây dài ngày tạo điều kiện rồi dứt điểm, hai là tiến công táo bạo từ đầu, đánh nhanh, dứt điểm nhanh, thì nay nên chọn phương án 2, tức là làm thật nhanh, thật táo bạo, đồng thời có sự chuẩn bị trong điều kiện nào đó nếu cần thì chủ động chuyển sang phương án 1 cũng nhằm giành thắng lợi cuối cùng trong một thời gian ngắn. Với lực lượng sẵn có, cần hành động kịp thời để lợi dụng mọi thời cơ cụ thể do địch hoang mang và lúng túng đưa lại, tiến công liên tiếp, giành thắng lợi liên tiếp, làm đảo lộn mọi mưu đồ chấn chỉnh lực lượng hoặc tăng cường viện trợ của Mỹ”.
Như nhiều trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử, Chiến dịch Hồ Chí Minh phải đánh vào nơi địch phòng ngự mạnh nhất, giáng đòn quyết định cuối cùng vào ý chí của chúng. Do đó phải có sức mạnh đầy đủ và tập trung nhất, là tổng hợp sức mạnh Việt Nam trong chiến tranh, cả sức mạnh vật chất và sức mạnh chính trị – tinh thần, ý chí, trí tuệ Việt Nam, cả nước được huy động cho chiến dịch toàn thắng.
Giống các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã từng bước phát triển sáng tạo đến đỉnh cao nghệ thuật quân sự truyền thống, Chiến dịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước là chiến dịch tiếp tục phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam lên tầm cao mới.
Đó là nghệ thuật tập trung lực lượng quân sự lớn nhất, hình thành ưu thế áp đảo địch ở ngay trung tâm đầu não của chúng; hình thành thế trận bao vây chặt dựa trên lực lượng mạnh cả quân sự và chính trị, trong đó lực lượng vũ trang chủ lực cơ động chiến lược giữ vai trò nòng cốt, quyết định và đi trước một bước; thực hiện hiệp đồng các quân binh chủng, các hướng tiến công, các binh đoàn chủ lực với lực lượng địa phương. Đó là nghệ thuật đánh dứt điểm nhanh, kết hợp chặt chẽ phòng thủ vòng ngoài với thọc sâu của các binh đoàn cơ giới và đột kích vào trung tâm thành phố Sài Gòn, chiếm mục tiêu quan trọng nhất.
Chiến dịch Hồ Chí Minh làm được điều kỳ diệu, hiếm có trong lịch sử chiến tranh: Giải phóng thành phố Sài Gòn hầu như nguyên vẹn, hạn chế đổ máu và ít tổn thất. Đề ra phương châm tác chiến chiến dịch: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, nhưng tài thao lược theo cách “Đánh bằng mưu kế, thắng bằng thế thời”, kết thúc chiến tranh có lợi nhất cho sự phát triển của đất nước. Đó là việc thực hiện phối hợp chặt chẽ đòn tiến công mạnh mẽ của các binh đoàn chủ lực cơ động với đòn đánh hiểm của lực lượng vũ trang tại chỗ và phong trào nổi dậy của quần chúng – Cùng với 5 cánh quân là các đạo quân chủ lực từ 5 hướng tấn công bao vây Sài Gòn, còn có “5 cánh quân nổi dậy” tại 5 khu vực nội thành (Quận 3, Quận 4, quận Phú Nhuận, quận Bình Thạnh, quận Tân Bình), tổ chức nhân dân nổi dậy làm chủ ở cơ sở.
Đến ngày 28/4/1975, Sài Gòn đã hoàn toàn bị 5 cánh quân của ta vây chặt. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố dành cho đối phương một ngày để di tản. Vậy mà họ vẫn có ảo tưởng phái “sứ giả” đi đàm phán về giải pháp ngừng bắn. Cho đến khi xe tăng Quân giải phóng chồm tới cổng Dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn sáng 30/4, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa không còn lựa chọn nào khác ngoài việc buộc phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Chỉ 5 ngày quyết chiến chiến lược (từ 26-30/4/1975), Chiến dịch Hồ Chí Minh đã làm tan rã toàn bộ chính quyền, quân đội, cảnh sát của Việt Nam Cộng hòa từ Trung ương đến các địa phương còn lại ở miền Nam, gồm trên 45 vạn quân; tịch thu 500 khẩu pháo, hơn 400 xe tăng, xe thiết giáp, 800 máy bay, 600 tàu chiến, 270.000 khẩu súng các loại, 3.000 xe quân sự cùng nhiều kho tàng, dự trữ chiến tranh tích lũy trong 20 năm; toàn bộ lực lượng cố vấn quân sự còn lại của Mỹ ở Việt Nam phải rút chạy.
Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, đã hoàn thành trọn vẹn mục tiêu “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra; giải phóng toàn bộ miền Nam Việt Nam, chấm dứt 21 năm chia cắt đất nước, đưa đến sự thống nhất, độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam trên đất liền, vùng trời, vùng biển; đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên toàn bộ Tổ quốc Việt Nam.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch tiến công lớn chưa từng có trên chiến trường Việt Nam, vượt xa các chiến dịch lớn trước đó cả về quy mô lực lượng, cường độ, nhịp độ tiến công, nội dung tác chiến hiệp đồng quân binh chủng, mức độ hoàn thành triệt để nhiệm vụ chiến lược, cũng như mục đích chính trị của chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Chiến dịch vĩ đại ấy được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
Chiến dịch lấy tên “Hồ Chí Minh” mang tầm vóc đại thắng của dân tộc, một chiến công hiển hách dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cả trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ý kiến ()