Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 17/3/2025
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 17/3/2025.
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2025/NĐ-CP ngày 15/3/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Sửa đổi phạm vi điều chỉnh
Nghị định 67/2025/NĐ-CP mở rộng phạm vi điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhằm làm rõ các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi điều chỉnh. Cụ thể, Nghị định 67/2025/NĐ-CP nêu rõ: Nghị định này quy định chính sách, chế độ, gồm: Chính sách, chế độ đối với người nghỉ việc (nghỉ hưu trước tuổi và nghỉ thôi việc); chính sách đối với người được bầu cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý có phụ cấp chức vụ thấp hơn hoặc thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; chính sách khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức tăng cường đi công tác tại cơ sở; chính sách trọng dụng người có phẩm chất, năng lực nổi trội; chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, công chức, viên chức sau sắp xếp; trách nhiệm thực hiện chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và hội do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ từ trung ương đến cấp huyện, cán bộ, công chức cấp xã, lực lượng vũ trang (gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và cơ yếu) trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính các cấp, tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị, bao gồm:
1. Cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện và lực lượng vũ trang.
2. Các tổ chức hành chính của cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cấp huyện trực tiếp thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy hoặc không trực tiếp thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy nhưng thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức.
3. Các đơn vị sự nghiệp công lập trực tiếp thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy hoặc không trực tiếp thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy nhưng thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng viên chức, gồm:
a) Các đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của các cơ quan, tổ chức từ trung ương đến cấp huyện và các tổ chức hành chính của cơ quan, tổ chức từ trung ương đến cấp huyện;
b) Các đơn vị thuộc tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương và huyện ủy, thị ủy, quận ủy, thành ủy thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; thuộc tổ chức chính trị - xã hội ở cấp tỉnh.
4. Đơn vị sự nghiệp công lập khác còn lại (không thuộc quy định tại khoản 3 nêu trên) hoàn thành việc sắp xếp tổ chức trong thời gian 12 tháng kể từ khi có quyết định sắp xếp của cấp có thẩm quyền.
5. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị do sắp xếp đơn vị hành chính các cấp.
6. Các hội được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện thực hiện sắp xếp, hợp nhất, sáp nhập tổ chức bộ máy.
Bổ sung đối tượng áp dụng
Nghị định 67/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 2 về đối tượng áp dụng để thực hiện kết luận của Bộ Chính trị. Cụ thể, đối tượng áp dụng gồm:
1. Cán bộ, công chức, viên chức, người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Điều 1 Nghị định này và lực lượng vũ trang chịu sự tác động trực tiếp của việc thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp, bao gồm:
a) Công chức, viên chức không giữ chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý;
b) Cán bộ, công chức cấp xã;
c) Người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động một số loại công việc trong các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật trước thời điểm ngày 15/1/2019 và người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động được áp dụng chính sách như công chức;
d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng và lao động hợp đồng hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam;
đ) Sĩ quan, hạ sĩ quan hưởng lương, công nhân công an và lao động hợp đồng hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc Công an nhân dân;
e) Người làm việc trong tổ chức cơ yếu;
g) Cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại các khoản 1,2,3,5 Điều 1 Nghị định này, có nguyện vọng nghỉ việc để tạo điều kiện thuận lợi trong việc sắp xếp số lượng cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý theo quy định của pháp luật trong việc thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
2. Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật trước thời điểm ngày 15/1/2019 và lực lượng vũ trang còn đủ 5 năm trở xuống đến tuổi nghỉ hưu trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Điều 1 Nghị định này không chịu sự tác động trực tiếp của việc sắp xếp tổ chức bộ máy nhưng phải thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.
3. Người làm việc trong chỉ tiêu biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước tại các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện chịu tác động trực tiếp của việc thực hiện sắp xếp, hợp nhất, sáp nhập tổ chức bộ máy.
4. Cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm quy định tại các khoản 1, 2,3 Điều 2 Nghị định số 177/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ quy định chế độ, chính sách đối với các trường hợp không tái cử, tái bổ nhiệm; cán bộ đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm cấp ủy cùng cấp, có thời gian công tác tính từ ngày bắt đầu tổ chức đại hội còn từ 2,5 năm (30 tháng) đến 5 năm (60 tháng) đến đủ tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định số 177/2024/NĐ-CP và cán bộ đang tham gia cấp ủy ở các đảng bộ phải kết thúc hoạt động, kiện toàn tổ chức bộ máy còn 5 năm trở xuống đến tuổi nghỉ hưu, có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi để tạo điều kiện sắp xếp nhân sự cấp ủy trong kỳ đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và được cấp có thẩm quyền đồng ý.
Bổ sung "hệ số chênh lệch bảo lưu lương" để đảm bảo quyền lợi đối với cán bộ, công chức, viên chức khi nghỉ việc
Về xác định tiền lương tháng hiện hưởng để tính chính sách, chế độ, Nghị định 67/2025/NĐ-CP bổ sung "hệ số chênh lệch bảo lưu lương" để đảm bảo quyền lợi đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khi nghỉ việc.
Cụ thể, tiền lương tháng hiện hưởng là tiền lương tháng liền kề trước khi nghỉ việc, bao gồm: Mức tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc hàm, chức vụ, chức danh, chức danh nghề nghiệp hoặc mức lương theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng lao động; các khoản phụ cấp lương (gồm: Phụ cấp chức vụ lãnh đạo; phụ cấp thâm niên vượt khung; phụ cấp thâm niên nghề; phụ cấp ưu đãi theo nghề; phụ cấp trách nhiệm theo nghề; phụ cấp công vụ; phụ cấp công tác đảng, đoàn thể chính trị - xã hội; phụ cấp đặc thù đối với lực lượng vũ trang) và hệ số chênh lệch bảo lưu lương (nếu có) theo quy định của pháp luật về tiền lương".
Bên cạnh đó, Nghị định 67/2025/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung tên Điều 6 như sau: "Điều 6. Tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên chức và người lao động để thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức và giải quyết chính sách, chế độ".
Sửa đổi chính sách đối với người nghỉ hưu trước tuổi
Nghị định 67/2025/NĐ-CP sửa đổi Điều 7 và bổ sung Điều 7a, 7b quy định cụ thể chính sách đối với người nghỉ hưu trước tuổi trong các trường hợp: do sắp xếp tổ chức bộ máy; do tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và chính sách nghỉ hưu trước tuổi đối với cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm hoặc đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm.
Cụ thể, theo quy định mới, đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 2 Nghị định này nghỉ hưu trước tuổi, được hưởng chính sách nghỉ hưu trước tuổi theo thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và số năm nghỉ sớm như sau:
a) Trường hợp có tuổi đời còn từ đủ 02 năm đến đủ 05 năm đến tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP và có đủ thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc để được hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, ngoài hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì còn được hưởng các chế độ sau:
Không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi;
Được trợ cấp 05 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP;
Được trợ cấp 05 tháng tiền lương hiện hưởng cho 20 năm đầu công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được trợ cấp 0,5 tháng tiền lương hiện hưởng.
Trường hợp đủ 15 năm công tác trở lên có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và thuộc đối tượng được hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thời điểm nghỉ hưu trước tuổi thì được trợ cấp 04 tháng tiền lương hiện hưởng đối với 15 năm đầu công tác; từ năm thứ 16 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được trợ cấp 0,5 tháng tiền lương hiện hưởng.
b) Trường hợp có tuổi đời còn trên 05 năm đến đủ 10 năm đến tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP và có đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc để được hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, ngoài hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì còn được hưởng các chế độ sau:
Không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi;
Được trợ cấp 04 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP;
Được trợ cấp 05 tháng tiền lương hiện hưởng cho 20 năm đầu công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được trợ cấp 0,5 tháng tiền lương hiện hưởng.
Trường hợp đủ 15 năm công tác trở lên có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và thuộc đối tượng được hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thời điểm nghỉ hưu trước tuổi thì được trợ cấp 04 tháng tiền lương hiện hưởng đối với 15 năm đầu công tác; từ năm thứ 16 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được trợ cấp 0,5 tháng tiền lương hiện hưởng.
c) Trường hợp có tuổi đời còn từ đủ 02 năm đến đủ 05 năm đến tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP và có đủ thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc để được hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, trong đó có đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lao động ban hành hoặc có đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn do cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lao động ban hành bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021, ngoài hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, thì còn được hưởng các chế độ sau:
Không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi;
Được trợ cấp 05 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP;
Được trợ cấp 05 tháng tiền lương hiện hưởng cho 20 năm đầu công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được trợ cấp 0,5 tháng tiền lương hiện hưởng.
Trường hợp đủ 15 năm công tác trở lên có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và thuộc đối tượng được hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thời điểm nghỉ hưu trước tuổi thì được trợ cấp 04 tháng tiền lương hiện hưởng đối với 15 năm đầu công tác; từ năm thứ 16 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được trợ cấp 0,5 tháng tiền lương hiện hưởng.
Bổ sung Điều 7a. Chính sách đối với người nghỉ hưu trước tuổi do tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
Đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này nghỉ hưu trước tuổi, được hưởng các chế độ quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định này. Ngoài ra, được hưởng trợ cấp hưu trí một lần cho thời gian nghỉ sớm:
1. Đối với người nghỉ trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày 15/3/2025 thì được hưởng trợ cấp bằng 01 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng nghỉ sớm so với thời điểm nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I và Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP;
2. Đối với người nghỉ từ tháng thứ 13 trở đi kể từ ngày 15/3/2025 thì được hưởng bằng 0,5 mức trợ cấp tại khoản 1 Điều này.
Bổ sung Điều 7b. Chính sách nghỉ hưu trước tuổi đối với cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm hoặc đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm
Đối tượng quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định này nghỉ hưu trước tuổi, được hưởng các chế độ quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định này. Ngoài ra, được hưởng trợ cấp hưu trí một lần cho thời gian nghỉ sớm bằng 01 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng nghỉ sớm so với thời điểm nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I và Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP.
Sửa đổi, bổ sung nguồn kinh phí thực hiện chế độ
Nghị định 67/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 16 về nguồn kinh phí để thực hiện chế độ đối với viên chức và người lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Cụ thể, đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên: Kinh phí giải quyết chính sách, chế độ từ nguồn thu hoạt động sự nghiệp của đơn vị và nguồn thu hợp pháp khác.
Trường hợp các đơn vị sự nghiệp công lập không đủ nguồn kinh phí để giải quyết chính sách, chế độ thì được sử dụng các quỹ được trích theo quy định của đơn vị sự nghiệp công lập để giải quyết chính sách, chế độ.
Trường hợp các đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên do Nhà nước đặt hàng thông qua giá dịch vụ nhưng giá dịch vụ chưa tính đủ các yếu tố cấu thành để giải quyết chính sách, chế độ thì nguồn kinh phí giải quyết chính sách, chế độ do ngân sách nhà nước cấp bổ sung.
Bên cạnh đó, Nghị định 67/2025/NĐ-CP cũng bổ sung khoản 5, khoản 6 Điều 16 như sau:
Đối với người làm việc trong chỉ tiêu biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước tại các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện chịu tác động trực tiếp của việc thực hiện sắp xếp, hợp nhất, sáp nhập tổ chức bộ máy: Kinh phí giải quyết chính sách, chế độ do ngân sách nhà nước cấp.
Đối với các tổ chức hành chính kết thúc việc thực hiện cơ chế tài chính đặc thù như đơn vị sự nghiệp công lập từ ngày 01/1/2025 thì nguồn kinh phí giải quyết chính sách, chế độ do ngân sách nhà nước cấp.
Bỏ quy định về chính sách hỗ trợ thêm của địa phương
Nghị định 67/2025/NĐ-CP bỏ khoản 6 Điều 19 quy định UBND tỉnh, thành phố căn cứ khả năng cân đối ngân sách địa phương, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành chính sách hỗ trợ thêm đối với các đối tượng thuộc phạm vi quản lý.
Đồng thời, Nghị định 67/2025/NĐ-CP cũng quy định: Các trường hợp đã được cấp có thẩm quyền giải quyết chính sách hỗ trợ thêm từ nguồn ngân sách địa phương theo quy định tại khoản 6 Điều 19 Nghị định số 178/2024/NĐ-CP trước ngày 15/3/2025 thì vẫn được hưởng chính sách hỗ trợ thêm này.
Điều khoản chuyển tiếp
Nghị định 67/2025/NĐ-CP nêu rõ: Các trường hợp đang thực hiện giải quyết chính sách, chế độ do sắp xếp tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo quy định tại Nghị định số 29/2023/NĐ-CP nhưng cấp có thẩm quyền chưa ban hành quyết định giải quyết chính sách, chế độ thì được áp dụng chính sách, chế độ quy định tại Nghị định này.
Các trường hợp đang thực hiện giải quyết chính sách, chế độ do sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã, đã được cấp có thẩm quyền giải quyết chính sách, chế độ theo Nghị định số 29/2023/NĐ-CP nhưng thời điểm nghỉ việc sau ngày 1/1/2025 thì được áp dụng chính sách, chế độ quy định tại Nghị định này.
Các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định này đã được cấp có thẩm quyền giải quyết chính sách, chế độ theo Nghị định số 177/2024/NĐ-CP, nếu chính sách, chế độ thấp hơn so với chính sách, chế độ quy định tại Nghị định này thì áp dụng chính sách, chế độ quy định tại Nghị định này.
Các trường hợp đã được cấp có thẩm quyền giải quyết chính sách, chế độ theo quy định tại Nghị định số 178/2024/NĐ-CP, nếu chính sách, chế độ thấp hơn so với chính sách, chế độ quy định tại Nghị định này thì được cấp bổ sung theo chính sách, chế độ quy định tại Nghị định này.
Các trường hợp do sắp xếp tổ chức bộ máy hoặc thay đổi tổ chức hoặc thay đổi biểu tổ chức, biên chế đã được cấp có thẩm quyền quyết định nghỉ hưu trước hạn tuổi trước ngày 1/1/2025 theo quy định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng và Luật Cơ yếu, nhưng đến ngày 1/1/2025 cấp có thẩm quyền chưa ban hành quyết định giải quyết chính sách, chế độ thì được áp dụng chính sách, chế độ quy định tại Nghị định này.
Nghị định 67/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (15/3/2025).
Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về xây dựng Quy chuẩn quốc gia về khí thải phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 111/TB-VPCP ngày 17/3/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về xây dựng Quy chuẩn quốc gia về khí thải phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành.

Thông báo kết luận nêu rõ, việc khẩn trương xây dựng Quy chuẩn quốc gia (QCVN) khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là hết sức cần thiết và cấp bách, đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường và Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ.
Thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao đã triển khai xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, trong đó Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng QCVN khí thải đối với xe ô tô đang lưu hành, tổ chức thẩm tra, thẩm định theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, thẩm tra, thẩm định các QCVN về khí thải còn có sự lúng túng, chưa thống nhất về cơ quan chủ trì xây dựng, ban hành QCVN, chậm xây dựng lộ trình áp dụng QCVN về khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành; vì vậy, các cơ quan, đơn vị cần tập trung nghiên cứu đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và trật tự, an toàn giao thông đường bộ để khẩn trương xây dựng, ban hành các QCVN và lộ trình áp dụng QCVN về khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành.
Để khẩn trương hoàn thiện, ban hành QCVN khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu, đánh giá đầy đủ cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn để xây dựng, ban hành QCVN về khí thải và lộ trình áp dụng QCVN về khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
Trong đó, khẩn trương ban hành theo thẩm quyền QCVN về khí thải đối với xe ô tô đang lưu hành trong tháng 3 năm 2025, ban hành QCVN về khí thải đối với xe mô tô đang lưu hành trong tháng 4 năm 2025; xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành lộ trình áp dụng QCVN về khí thải đối với xe ô tô đang lưu hành trong tháng 3 năm 2025; trình Thủ tướng Chính phủ lộ trình áp dụng QCVN về khí thải đối với xe mô tô đang lưu hành trong tháng 4 năm 2025.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Bộ Xây dựng, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị lớn, tính toán phương án hạn chế phương tiện giao thông có mức độ phát thải cao tại những khu vực đang có nguy cơ cao về ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm về khí thải; đẩy mạnh công tác tuyên truyền để tạo sự đồng thuận của người dân trong quá trình thực hiện lộ trình áp dụng QCVN về khí thải, góp phần bảo vệ môi trường, đặc biệt tại các đô thị lớn.
Tính toán phương án hạn chế phương tiện giao thông có mức độ phát thải cao
Phó Thủ tướng giao Bộ Xây dựng chỉ đạo Cục Đăng kiểm Việt Nam khẩn trương cung cấp thông tin, dữ liệu kiểm định khí thải ô tô đang lưu hành cho Bộ Nông nghiệp và Môi trường trước ngày 20 tháng 3 năm 2025 để Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu, làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện QCVN nêu trên.
Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ: Công an, Tư pháp, Nông nghiệp và Môi trường làm việc với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh tính toán phương án hạn chế phương tiện giao thông có mức độ phát thải cao tại những khu vực đang có nguy cơ cao về ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm về khí thải; xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách khuyến khích phát triển vận tải hành khách công cộng và chuyển đổi phương tiện sang sử dụng phương tiện giao thông xanh.
Bộ Xây dựng cùng với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh rà soát lại quy hoạch đô thị để điều chỉnh, bổ sung; trong đó nghiên cứu xây dựng các làn đường, tuyến đường dành riêng cho từng loại phương tiện (xe buýt, xe mô tô, xe đạp…) và cho người đi bộ nhằm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, thân thiện với môi trường.
Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các cơ quan có liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao trong quá trình xây dựng, ban hành QCVN và lộ trình áp dụng QCVN về khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành.
Kết luận của Thường trực Chính phủ tại cuộc họp về dự án xây dựng Luật Cấp, Thoát nước
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 113/TB-VPCP ngày 17/3/2025 kết luận của Thường trực Chính phủ tại cuộc họp về dự án xây dựng Luật Cấp, Thoát nước.

Theo Thông báo kết luận, Thường trực Chính phủ thống nhất về sự cần thiết ban hành Luật Cấp, Thoát nước với mục tiêu thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng như: xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, giải quyết ngập úng khu vực đô thị; bảo đảm người dân được tiếp cận sử dụng nước sạch, khắc phục ô nhiễm các dòng sông; đáp ứng các chỉ tiêu về tỷ lệ sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh của dân cư thành thị, nông thôn; hoàn thiện pháp luật về an sinh xã hội, bảo vệ môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số tuần hoàn; xây dựng các giải pháp bảo đảm an ninh nguồn nước, hệ thống chống ngập đô thị…
Khắc phục các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật liên quan đến lĩnh vực cấp, thoát nước như: pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động cấp, thoát nước cao nhất là Nghị định đã được ban hành lâu, không còn phù hợp với thực tiễn; quy hoạch cấp, thoát nước chưa đầy đủ, đồng bộ, chất lượng dự báo còn hạn chế, gây khó khăn cho việc định hướng, đầu tư phát triển hệ thống cấp, thoát nước; hoạt động đầu tư phát triển cấp, thoát nước chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường; các công trình cấp, thoát nước thiếu bền vững, hiệu quả, chất lượng dịch vụ, công tác quản lý vận hành còn nhiều hạn chế; việc ban hành giá nước sạch còn gặp nhiều khó khăn, giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải còn thấp, hạn chế huy động nguồn lực đầu tư…
Bộ Xây dựng tổng hợp, tiếp thu đầy đủ các ý kiến của Thường trực Chính phủ, các bộ tại cuộc họp để khẩn trương hoàn thiện dự thảo Luật, trình Chính phủ xem xét trong phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 3 năm 2025.
Trong đó lưu ý, dự thảo Luật Cấp, Thoát nước (dự thảo Luật) cần ngắn gọn, chỉ quy định các nội dung chính sách có tính nguyên tắc, mang ổn định, có giá trị lâu dài định hướng thuộc thẩm quyền của Quốc hội; các nội dung mang tính kỹ thuật, cụ thể, biến động thì giao Chính phủ, Bộ trưởng các Bộ, ngành quy định chi tiết để bảo đảm tính chủ động, linh hoạt trong quá trình thi hành; giải quyết những tồn tại, hạn chế.
Nước sạch là loại hàng hóa đặc thù, thiết yếu cho người dân và thu gom, xử lý nước thải là cần thiết để bảo vệ môi trường. Do vậy, cần nghiên cứu, rà soát để quy định trong dự thảo Luật các chính sách đột phá, vượt trội của lĩnh vực cấp, thoát nước so với pháp luật hiện hành về quy hoạch, kế hoạch, đầu tư, phương pháp định giá bán nước, giá dịch vụ thoát nước với mục tiêu khơi thông nguồn lực, sức sản xuất đáp ứng mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo đảm hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nghiên cứu bổ sung quy định về huy động nguồn lực đầu tư lĩnh vực cấp, thoát nước
Trong đó chú trọng rà soát, nghiên cứu bổ sung các quy định về huy động nguồn lực đầu tư trong lĩnh vực cấp, thoát nước thông qua các hình thức hợp đồng theo phương thức đối tác công tư (hợp đồng BT, PPP...).
Nghiên cứu, rà soát kỹ về quy định quản lý vận hành, khai thác cấp, thoát nước hiệu quả bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn cấp nước, không để xảy ra sự cố về môi trường, thiếu nước cho sản xuất, sinh hoạt, gây ảnh hưởng đến an sinh xã hội, phát triển kinh tế.
Tiếp tục rà soát cắt giảm triệt để các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, giấy phép không cần thiết, đơn giản hóa thủ tục hành chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho các bộ, ngành, đặc biệt địa phương (tăng quyền tự quyết các địa phương); địa phương phải chủ động xây dựng hệ thống cấp, thoát nước theo phương thức PPP, BT…) đi đôi với phân bổ nguồn lực, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Rà soát, làm rõ các nội dung, khái niệm được nêu trong dự thảo Luật, tránh gây nhầm lẫn, khó hiểu, không khả thi khi Luật có hiêu lực thi hành, bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm, công bằng, lợi ích hài hòa giữa đơn vị cung cấp nước, dịch vụ thoát nước với người dân, tổ chức, doanh nghiệp; nghiên cứu, bổ sung các chính sách khuyến khích về ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, chuyển đổi số trong đầu tư, quản lý và phát triển lĩnh vực cấp, thoát nước để đáp ứng yêu cầu thông minh, bền vững.
Tiếp tục rà soát kỹ các điều khoản chuyển tiếp tại dự thảo Luật để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm xử lý các trường hợp đang thực hiện theo quy định của Luật hiện hành, xử lý xung đột pháp luật (nếu có), tránh tạo khoảng trống pháp lý sau khi Luật này có hiệu lực thi hành.
Văn phòng Chính phủ chủ trì lấy ý kiến Thành viên Chính phủ sau khi Bộ Xây dựng trình Chính phủ hồ sơ dự án Luật Cấp, Thoát nước để tổng hợp, báo cáo Chính phủ tại Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 3 năm 2025, trong đó báo cáo rõ các nội dung còn có ý kiến khác nhau để Chính phủ thảo luận, bảo đảm chất lượng, hiệu quả của phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật.
Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về giải pháp công nghệ làm đường giao thông và cầu cạn do Công ty TNHH Hòa Bình đề xuất
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 108/TB-VPCP ngày 17/3/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về giải pháp công nghệ làm đường giao thông và cầu cạn do Công ty TNHH Hòa Bình đề xuất.

Thông báo kết luận nêu rõ, theo báo cáo của Công ty TNHH Hòa Bình đề xuất thì giải pháp ứng dụng cầu bản trên cọc PRC V+ và cầu dầm bê tông dự ứng lực cường độ cao HPC có nhiều sáng kiến, cải tiến mới như thời gian thi công rút ngắn, chi phí thấp, sử dụng lồng ghép đa mục tiêu, chi phí đầu tư thấp hơn so với đường cao tốc dùng đất và cát để làm nền đường, song vẫn phải bảo đảm tuổi thọ công trình theo yêu cầu.
Phó Thủ tướng Chính phủ ghi nhận các báo cáo và đề xuất sử dụng giải pháp của Công ty trong việc tham gia đầu tư xây dựng các công trình giao thông của đất nước trong bối cảnh cả nước đang tập trung nguồn lực phát triển hạ tầng để thực hiện một trong 3 đột phá chiến lược của quốc gia.
Tuy nhiên, theo ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học và báo cáo của Bộ Xây dựng thì giải pháp này là không mới, trong thực tế đã được thực hiện tại Việt Nam (theo các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia đã được ban hành) và nước ngoài (theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn của từng nước hoặc của tổ chức quốc tế đã được ban hành); giải pháp này chỉ ưu điểm áp dụng tại các vùng đất yếu, ngập nước... nhưng đối với khu vực trong đô thị thì chưa đảm bảo cảnh quan, mỹ quan chung; suất đầu tư theo tính toán của Công ty mới chỉ là sơ bộ, chưa có biện pháp thi công cụ thể, chi phí mặt bằng thi công và công trình phụ trợ mới là tạm tính, chưa xét đến chi phí làm đường tiếp cận phục vụ thi công...
Do đó, việc nghiên cứu, ứng dụng giải pháp công nghệ kỹ thuật mới cần phải dựa trên cơ sở khoa học, được cơ quan chuyên môn đánh giá sự phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn được ban hành; khi đưa vào khai thác sử dụng phải tuyệt đối an toàn, bảo đảm chất lượng và tuổi thọ của công trình.
Giải pháp, công nghệ kỹ thuật mới mà Công ty đề cập cần phải được kiểm định đánh giá của cơ quan chuyên môn có thẩm quyền của Nhà nước thông qua tiêu chuẩn, tiêu chí khoa học.
Theo đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà giao Bộ Xây dựng hướng dẫn Công ty TNHH Hòa Bình cung cấp bộ hồ sơ đầy đủ (hoàn thành trong tháng 3/2025) các thông tin về giải pháp mà Công ty đề xuất, trong đó Công ty TNHH Hòa Bình phải xây dựng các tiêu chuẩn (về thiết kế, khảo sát, tổ chức thi công), quy chuẩn, định mức, đơn giá, giải pháp thiết thiết kế kèm theo hướng dẫn kỹ thuật để so sánh với các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức, đơn giá theo quy định hiện hành; chứng minh quy trình công nghệ (vật liệu, thiết kế, tổ chức thi công) bảo đảm an toàn, bền vững của công trình và hiệu quả kinh tế của giải pháp (trên cơ sở phải tính toán đầy đủ các chi phí liên quan).
Phó Thủ tướng giao Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức thẩm định, đánh giá (hoàn thành trong tháng 4/2025) đối với hồ sơ về giải pháp nói trên do Công ty TNHH Hòa Bình cung cấp và nếu đáp ứng yêu cầu theo quy định của pháp luật về xây dựng và pháp luật về khoa học, công nghệ thì cần công bố chính thức việc áp dụng giải pháp này, trong đó xác định rõ tiêu chí, phạm vi áp dụng giải pháp.
Trên cơ sở các vấn đề pháp lý, kỹ thuật công nghệ đã được khẳng định (sự phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn) và chứng minh hiệu quả về kinh tế nêu trên, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chỉ đạo nghiên cứu đề xuất của Công ty TNHH Hòa Bình về việc áp dụng giải pháp thiết kế nêu trên để phối hợp với nhà đầu tư được lựa chọn triển khai 2 km Dự án thành phần 3 thuộc Dự án đường Vành đai 4 Vùng Thủ đô Hà Nội tại vị trí phù hợp, bảo đảm tiết kiệm chi phí đầu tư, mỹ quan đô thị, đúng trình tự, thủ tục về đầu tư và xây dựng và các quy định của pháp luật./.

Ý kiến ()