Cây chè ở Trung Thành bị bỏ rơi
Hàng chục ha chè ở huyện Đà Bắc (Hòa Bình) đang bị lãng quên. Nắm búp chè non mởn trên tay, anh Hà Văn Hạnh xã Trung Thành, huyện Đà Bắc (Hòa Bình) chìa ra và bảo, chè ở đây tốt lắm nhưng chẳng có ai chăm sóc các anh ạ! Cây chè đã từng được kỳ vọng là loại cây trồng mũi nhọn trong xóa đói, giảm nghèo cho người dân bởi phù hợp điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng ở xã vùng cao này nhưng đến nay thì nó chỉ còn là "ký ức".Tiếc nuối! Đó là câu nói mà chúng tôi nghe thấy khi về tìm hiểu nguyên nhân vì sao hàng chục ha chè, cây được xem là triển vọng, hướng thoát nghèo cho người dân xã Trung Thành, huyện Đà Bắc thời gian trước đây. Nhưng hiện nay, niềm hy vọng vào cây thoát nghèo đó dường như chỉ còn là hoài niệm. Theo người dân, nếu đem so với cây ngô và dong riềng là những loại cây trồng chủ lực ở Trung Thành, cây chè có giá trị trung bình gấp bốn đến năm lần. Hiệu quả là vậy, nhưng trên vùng đất...
![]() Hàng chục ha chè ở huyện Đà Bắc (Hòa Bình) đang bị lãng quên. |
Nắm búp chè non mởn trên tay, anh Hà Văn Hạnh xã Trung Thành, huyện Đà Bắc (Hòa Bình) chìa ra và bảo, chè ở đây tốt lắm nhưng chẳng có ai chăm sóc các anh ạ! Cây chè đã từng được kỳ vọng là loại cây trồng mũi nhọn trong xóa đói, giảm nghèo cho người dân bởi phù hợp điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng ở xã vùng cao này nhưng đến nay thì nó chỉ còn là “ký ức”.
Tiếc nuối! Đó là câu nói mà chúng tôi nghe thấy khi về tìm hiểu nguyên nhân vì sao hàng chục ha chè, cây được xem là triển vọng, hướng thoát nghèo cho người dân xã Trung Thành, huyện Đà Bắc thời gian trước đây. Nhưng hiện nay, niềm hy vọng vào cây thoát nghèo đó dường như chỉ còn là hoài niệm. Theo người dân, nếu đem so với cây ngô và dong riềng là những loại cây trồng chủ lực ở Trung Thành, cây chè có giá trị trung bình gấp bốn đến năm lần. Hiệu quả là vậy, nhưng trên vùng đất chè xưa của Đà Bắc vẫn đang có hàng chục ha chè bị lãng quên, mọc thành “rừng” xen với cây dại trong nỗi nuối tiếc, xót xa của những người có tâm huyết với chè.
Được kỳ vọng là loại cây trồng mũi nhọn trong xóa đói, giảm nghèo cho người dân bởi cây chè phù hợp điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng ở xã vùng cao này. Ngay từ những năm 1966 – 1967, Trung Thành đã được Nhà nước đầu tư trồng hàng chục ha chè và thành lập cả HTX, xây dựng xưởng chế biến chè hẳn hoi. Cây chè đã trở thành một sản phẩm hàng hóa đặc trưng được nhiều người biết đến. Với sản lượng ổn định, bình quân mỗi năm, HTX chè Trung Thành cung ứng khoảng 10 tấn chè búp khô cho các cửa hàng mậu dịch trong tỉnh và một số địa phương lân cận để bán phân phối cho người dân. Tuy vậy, theo đồng chí Hà Văn Lá, Bí thư Đảng ủy xã Trung Thành thì đến khi hết chế độ bao cấp, HTX chè bị giải thể, xưởng chè bị phá, hàng chục ha chè bị bỏ hoang, mọc xen với lau, cỏ. Sản phẩm chè vùng cao Đà Bắc cũng biến mất từ đấy.
Trong suốt một thời gian dài, cây chè không còn được quan tâm chăm sóc, kể cả khi nhận được sự đầu tư của Nhà nước từ các chương trình, dự án. Năm 2000, thực hiện Đề án 1119/1999/UBND của UBND tỉnh về “Khôi phục, phát triển quy hoạch vùng chè shan tuyết của tỉnh Hòa Bình”, Ban Định canh định cư (nay là Chi cục ĐC -ĐC thuộc Ban Dân tộc) tỉnh đã đưa cây chè shan tuyết lên các xã Trung Thành, Yên Hòa, Đoàn Kết, Đồng Ruộng… trồng theo mô hình phòng hộ với ý tưởng vừa trồng chè, vừa trồng rừng phòng hộ. Sau ý tưởng này được phát triển thành đề án xây dựng vùng chè sản xuất với mật độ từ mười đến mười hai nghìn cây/ha. Mặc dù đã được tuyên truyền bằng nhiều cách như tập huấn chuyển giao kỹ thuật, xây dựng mô hình trình diễn, thậm chí dùng chính hiệu quả của các hộ gia đình trên địa bàn tham gia trồng chè ở các thôn, xóm nhưng đến nay, sau hơn 10 năm, phần lớn diện tích chè ở Trung Thành vẫn còn trồng theo mô hình phòng hộ không có sự quan tâm, đầu tư, chăm sóc nên những cây chè khẳng khiu, mọc lẫn với cây rừng chưa đem lại hiệu quả kinh tế. Nói về cây chè ở Trung Thành, Phó Giám đốc Công ty TNHH Phương Huyền Nguyễn Minh Hòa tỏ ra tiếc nuối: Từ năm 2006 đến nay, công ty đã đầu tư thu mua sản phẩm chè búp tươi của người dân ở các xã vùng cao, trong đó có Trung Thành nhưng thực tế, hiệu quả không cao. Mặc dù ở Trung Thành có diện tích chè khá lớn đến hơn 70 ha, với hơn trăm hộ trồng nhưng tính ra chỉ khoảng một phần ba số hộ có chè bán, hầu hết người dân vẫn duy trì trồng chè theo mô hình phòng hộ, cây chè trở nên hoang hóa và bị lãng quên giữa bạt ngàn cây rừng, lau lách. Lý giải về sự thờ ơ với cây chè, đồng chí Xa Văn Sinh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Trung Thành cho rằng, trước đây, khi hết thời kỳ bao cấp, cây chè không có đầu ra ổn định luôn bị tư thương ép giá. Người dân lại cho rằng làm chè mất nhiều công sức hơn trồng ngô nên họ không tập trung đầu tư. Đối với cây ngô, người ta chỉ cần bỏ công trồng rồi thu hái, không phải chăm sóc như chè. Bên cạnh đó, cây ngô được tư thương đầu tư từ giống, phân bón, cho dân vay gạo và bao tiêu sản phẩm, thế nên họ đã quay lưng lại với cây chè, tập trung vào cây ngô.
Nói vậy, không phải tất cả mọi người dân ở Trung Thành, nhất là ở những xóm có truyền thống trồng chè từ xưa như xóm Thượng, xóm Búa và xóm Bay đều thờ ơ với cây chè. Đồng chí Hà Văn Lá cho biết: Từ khi xác định cây chè là một loại cây trồng mũi nhọn, cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể đã tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân hiểu, thấy được giá trị của cây chè. Nhờ đó, tính đến nay cả xã có 120 hộ tham gia trồng chè, đã phát triển được 75 ha chè, trong số đó có 45 ha cho thu hoạch. Tuy vậy, cũng phải thừa nhận phía người dân vẫn còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước nên trong số 75 ha chè của xã mới chỉ có khoảng 30 ha là trồng theo mô hình sản xuất, còn lại người dân vẫn duy trì mô hình phòng hộ, để chè mọc hoang hóa không có sự chăm sóc. Do vậy, tính về hiệu quả kinh tế vẫn còn ở mức độ thấp, chưa tạo được sự đột phá trong việc làm thay đổi đời sống người dân. Cũng theo đồng chí Hà Văn Lá, theo tính toán, mỗi hộ chỉ cần có khoảng 2.000 – 5.000 m2 chè sản xuất, quanh năm làm không hết việc vì với cây chè có thể thu hái liên tục từ sáu đến tám tháng trong năm, nếu đầu tư tốt trung bình mỗi tuần hái một lứa. Hiện tại ở Trung Thành cũng đã có nhiều gia đình đời sống khấm khá lên từ cây chè như gia đình ông Lường Văn Dân, Lường Văn Hậu ở xóm Búa, gia đình anh Lường Văn Liên, Lường Văn Thiên ở xóm Thượng… bình quân mỗi hộ có từ khoảng 2.000 đến 5.000 m2. Bình quân mỗi hộ trồng chè theo mô hình sản xuất, mỗi tháng có nguồn thu ổn định từ một đến ba triệu đồng, cá biệt có hộ thu từ bốn đến sáu triệu đồng/tháng như gia đình ông Lường Văn Hậu, Lường Văn Dân. Phó Giám đốc Công ty TNHH Phương Huyền Nguyễn Minh Hòa cho rằng: Tính ra giá trị kinh tế từ việc làm chè lãi gấp hai, ba lần thâm canh ngô. Đầu tư cho cây chè ở Trung Thành là đúng hướng nhưng vấn đề ở đây là sự tiếp nhận của người dân đối với cây chè như thế nào mà thôi. Cái khó nhất là người dân chưa tiếp cận được cách làm ăn kinh tế hàng hóa và nhiều người dân có thể chịu khổ được nhưng không chịu khó được để làm chè. Cùng chung quan điểm đó, đồng chí Xa Văn Sinh cho rằng, qua thực tế cũng đã chứng minh rất rõ là làm chè lãi hơn so với trồng ngô. Cho dù cây ngô năng suất có cao đến mấy, mỗi năm cũng chỉ thu được hai vụ. Với cây chè, mỗi năm được thu liên tục trong thời gian tám tháng. Hiện tại cây chè đã có đầu ra ổn định với giá cả thu mua hợp lý, làm giàu thì chưa tính đến nhưng để thoát nghèo bền vững đó không phải là mục tiêu xa vời.
Mặc dù vậy, với tư tưởng “ăn xổi” thì sự quan tâm của người dân ở Trung Thành đối với cây chè vẫn còn ở mức độ nhất định. Nói về vấn đề này, đồng chí Hà Văn Lá thừa nhận: Dù có điều kiện, có tiềm năng lớn nhưng xã chưa phát huy được lợi thế, giá trị của cây chè là vì người dân chưa chú trọng đúng mức, chỉ khai thác chứ chưa tập trung vào đầu tư. Một bộ phận lớn người dân vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước. Vì lẽ đó, cho đến tận bây giờ, ở Trung Thành vẫn còn những “rừng chè” đang bị lãng quên.
Theo Nhandan
![](https://mediabls.mediatech.vn/assets/images/load3.gif)
Ý kiến ()