Cần thiết ban hành Nghị định hướng dẫn về tạm quản hàng hoá
Toàn cảnh phiên họp. |
Công ước Istanbul về tạm quản hàng hóa được ký kết ngày 26/6/1990, có hiệu lực từ ngày 27/11/1993 dưới sự quản lý của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO).
Thông báo số 1134/TB-TTKQH ngày 26/9/2017 của Tổng Thư ký Quốc hội nhất trí với đề nghị của Chính phủ về việc gia nhập Công ước Istanbul; giao Chính phủ thực hiện việc nội luật hóa các quy định của Công ước.
Việt Nam chính thức là thành viên Công ước Istanbul từ ngày 3/7/2019 theo Thông báo số 27/2019/TB-LPQT ngày 4/7/2014 của Bộ Ngoại giao.
Công ước gồm 5 Chương với 34 điều bao gồm nguyên tắc cơ bản của Công ước, những điều khoản thiết yếu để Công ước được áp dụng nhất quán; các điều khoản về: phạm vi, cấu trúc cơ chế quản lý, gia nhập và sửa đổi Công ước… và 13 phụ lục quy định từng nhóm mặt hàng cụ thể.
Nội dung của cơ chế tạm quản hàng hóa là hàng hóa được phép tạm nhập vào hoặc tạm xuất ra khỏi một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện chủ hàng phải bảo đảm tái xuất hoặc tái nhập hàng hóa trong thời hạn nhất định.
Cơ chế tạm quản vận hành dựa trên hệ thống Sổ Tạm quản (ATA carnet) là một bộ chứng từ hải quan duy nhất được quốc tế công nhận dùng để thay thế tờ khai hải quan áp dụng đối với hàng hóa đi lại theo chế độ tạm quản giữa các thành viên của Công ước Istanbul.
Tờ trình của Chính phủ về dự thảo Nghị định hướng dẫn việc thực hiện cơ chế tạm quản theo Công ước Istanbul do Thứ Trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai trình bày cho biết, việc ban hành Nghị định của Chính phủ nhằm thực hiện cam kết quốc tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai cơ chế tạm quản. Đơn giản hóa thủ tục, áp dụng biện pháp nghiệp vụ hải quan tiên tiến, phù hợp với xu hướng phát triển giao lưu thương mại của Việt Nam khi gia nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế. Đồng thời, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Dự thảo Nghị định hướng dẫn thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan, thủ tục cấp và hoàn trả số tạm quản (sổ ATA), bảo đảm thuế nhập khẩu, các khoản thuế khác và phí, lệ phí (nếu có) đối với hàng hóa tạm quản theo Công ước Istanbul.
Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định có quy định về cơ chế bảo đảm hàng hóa tạm quản, thời hạn tạm quản, khoản thu phí cấp số ATA là những quy định mới so với pháp luật hiện hành cần xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Thẩm tra dự thảo Nghị định, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- Ngân sách Nguyễn Đức Hải cho biết, hồ sơ dự thảo Nghị định của Chính phủ đã bảo đảm theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, Báo cáo thẩm tra cũng đề nghị Chính phủ báo cáo đánh giá tác động cụ thể về thủ tục hành chính và chính xác hơn về chi phí đối với Nhà nước, doanh nghiệp, cơ quan bảo đảm (VCCI), số liệu về tổng thu phí hải quan đối với các mặt hàng thuộc phạm vi tạm quản qua các năm, thống kê giá trị các hàng hóa tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập thuộc phạm vi tạm quản trong các năm qua.
Ủy ban Tài chính- Ngân sách nhất trí việc quy định hàng hóa tạm quản phải được đặt dưới chế độ bảo đảm. Tuy nhiên, đề nghị cần quy định đối với trường hợp hàng hóa tạm xuất từ Việt Nam thì đồng tiền bảo lãnh là đồng Việt Nam, các trường hợp khác thì đồng tiền bảo lãnh phải thực hiện theo quy định của nước đi và bổ sung quy định về đồng tiền nộp thuế.
Ủy ban Tài chính- Ngân sách cho rằng, quy định về thời hạn tạm quản tại Điều 6 của dự thảo Nghị định có một số nội dung chưa thực sự rõ ràng. Do vậy, đề nghị bổ sung nội dung bao gồm cả thời hạn sử dụng của sổ ATA thay thế vào khoản 2 và khoản 3 và sửa lại khoản 1, 2 và 3 Điều 6 của dự thảo Nghị định. Cùng với đó là đề nghị Chính phủ quy định rõ trong Nghị định về thời hạn tạm quản hàng hóa tối đa có thời gian là bao nhiêu ngày. Có ý kiến đề nghị trường hợp hết thời hạn tái xuất mà hàng hóa chưa thực tái xuất thì không nên gia hạn thêm, chỉ quy định 12 tháng vì so với quy định hiện hành của Việt Nam đã dài hơn 2 lần.
Về giao cơ quan thực hiện cấp sổ và thu phí cấp sổ ATA, Ủy ban Tài chính- Ngân sách đề nghị Chính phủ làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc giao cho VCCI thực hiện dịch vụ công mà nhiệm vụ này đang thuộc trách nhiệm của cơ quan hải quan, trong khi Công ước Istanbul cũng không quy định cụ thể vấn đề này; cơ cấu tổ chức bộ máy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực tài chính để thực hiện nhiệm vụ này của VCCI có đảm bảo không? Việc giao cho VCCI thực hiện cấp sổ tạm quản và bảo lãnh hàng tạm quản được hiểu là Nhà nước chỉ định một tổ chức thực hiện dịch vụ công, việc giao độc quyền cung cấp dịch vụ công như vậy có phù hợp không?
Thảo luận tại phiên họp, các đại biểu cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành Nghị định của Chính phủ để hướng dẫn việc thực hiện cơ chế tạm quản theo Công ước Istanbul; khẳng định cần có một Nghị định của Chính phủ để nội luật hóa Công ước Istanbul mà Việt Nam đã tham gia.
Phát biểu kết thúc thảo luận về nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển khẳng định, những vấn đề Chính phủ nêu trong Tờ trình đều đã được quy định rất rõ trong Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký cũng như Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật.
Riêng về việc cấp sổ tạm quản ATA, Ủy ban Thường vụ thống nhất coi đây là một loại phí hải quan nằm trong danh mục phí và lệ phí do Chính phủ chỉ đạo và hướng dẫn và không phải ban hành theo một danh mục phí mới.
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho biết, tới đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ có thông báo sang cho Chính phủ để ban hành Nghị định này.
Ý kiến ()