Cần hoàn thiện cơ chế điều hành giá xăng, dầu
Xăng, dầu là mặt hàng vật tư thiết yếu và mang tính chiến lược đối với sự phát triển của đất nước, là yếu tố đầu vào của nhiều hoạt động sản xuất và tiêu dùng xã hội. Ở nước ta, xăng, dầu tiêu dùng trong nước chủ yếu phải nhập khẩu (khoảng 70%), do vậy giá xăng, dầu trong nước chịu sự tác động trực tiếp của giá thị trường xăng, dầu thế giới.Những bất cậpXăng, dầu là một trong những mặt hàng chiến lược có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, để quản lý giá xăng, dầu Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh chính sách phù hợp với từng thời kỳ. Việc đưa kinh doanh xăng, dầu vận hành theo cơ chế thị trường qua nhiều năm do nhiều yếu tố tác động, chúng ta vẫn chưa thực hiện được chủ trương đó. Nghị định số 84/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15-12-2009 thay thế Nghị định 55, lần đầu quy định rất cụ thể, khống chế định mức, định lượng, thời hạn của việc tăng, giảm giá xăng, dầu. Đặc biệt là công khai hóa công thức tính toán hình thành giá bán lẻ xăng,...
Những bất cập
Xăng, dầu là một trong những mặt hàng chiến lược có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, để quản lý giá xăng, dầu Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh chính sách phù hợp với từng thời kỳ. Việc đưa kinh doanh xăng, dầu vận hành theo cơ chế thị trường qua nhiều năm do nhiều yếu tố tác động, chúng ta vẫn chưa thực hiện được chủ trương đó. Nghị định số 84/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15-12-2009 thay thế Nghị định 55, lần đầu quy định rất cụ thể, khống chế định mức, định lượng, thời hạn của việc tăng, giảm giá xăng, dầu. Đặc biệt là công khai hóa công thức tính toán hình thành giá bán lẻ xăng, dầu, công khai minh bạch để làm căn cứ giám sát quá trình tăng, giảm giá. Nghị định cho phép doanh nghiệp (DN) được phép tự ban hành, công bố và áp dụng giá bán mà không cần đăng ký, xin phép phương án điều chỉnh giá, bỏ qua khâu kiểm tra, phê duyệt phương án như trước đây. Nghị định 84 ra đời được xem là hành lang pháp lý để thị trường xăng, dầu chính thức đi vào hoạt động. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cơ chế điều hành giá xăng, dầu thời gian qua còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với nguyên tắc quản lý giá của cơ chế thị trường và bảo đảm công bằng lợi ích của các bên liên quan, chưa tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội. Quá trình vận hành Nghị định 84 còn tồn tại những bất cập cần hoàn thiện, đó là:
Nghị định 84/2009/NĐ-CP ra đời trong bối cảnh trên thị trường kinh doanh xăng, dầu vẫn còn tình trạng độc quyền, chưa có sự cạnh tranh thật sự bình đẳng giữa các DN đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng, dầu, thể hiện giữa các DN kinh doanh xăng, dầu có sự chênh lệch lớn về lợi thế hạ tầng kỹ thuật, mạng lưới phân phối, vốn, thị phần… nhưng lại đưa về một mặt bằng cùng cạnh tranh, dẫn đến DN mạnh có cơ hội chiếm lĩnh và chi phối thị trường, DN nhỏ nhìn DN lớn để kinh doanh. Trong bối cảnh thị trường xăng, dầu còn tình trạng độc quyền lại giao việc định giá xăng, dầu cho DN là trái với nguyên tắc cơ bản trong cơ chế quản lý giá của kinh tế thị trường. Nghị định 84/2009/NĐ-CP quy định chi phí bán lẻ bình quân giữa các vùng trong cả nước đối với xăng, dầu, đi-ê-den, dầu hỏa tối đa là 600 đồng/lít là không hợp lý, nên quy định theo từng khu vực cũng như quy định mức chi phí bằng con số cố định sẽ nhanh chóng lạc hậu, bởi sự biến động của nền kinh tế và sự biến động của giá xăng, dầu, nên quy định số tương đối (%) so giá bán.
Việc thành lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá (BOG) xăng, dầu còn nhiều bất cập, chưa đúng thời điểm, việc sử dụng, quản lý chưa hợp lý. Về phương thức phối hợp điều hành giá kinh doanh xăng, dầu theo Nghị định 84 thời gian qua chưa tuân thủ theo đúng nguyên tắc quản lý giá của cơ chế thị trường. Cơ chế định giá còn “lưỡng tính”, “nửa vời “, Nhà nước giao quyền cho DN định giá, nhưng Nhà nước sẽ tham gia một phần trong việc điều chỉnh giá, không phải giao toàn quyền cho DN. Nếu yếu tố đầu vào làm thay đổi từ 0 đến 7% giá cơ sở thì DN được quyền quyết định giá xăng, dầu; trong trường hợp yếu tố đầu vào làm thay đổi từ 7 đến 12% giá cơ sở thì Nhà nước sẽ tham gia một phần trong việc điều chỉnh giá và khi giá đầu vào tăng hơn 12% so giá bán lẻ hiện hành hoặc việc tăng giá ảnh hưởng đến phát triển kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân, Nhà nước công bố áp dụng các biện pháp BOG thông qua điều hành thuế, Quỹ BOG và theo quy định của pháp luật hiện hành. Về cơ chế điều hành giá đối với sản phẩm còn mang tính độc quyền như vậy là không phù hợp với cơ chế thị trường.
Với cơ chế định giá xăng, dầu như Nghị định 84 quy định, DN không được chủ động điều chỉnh giá kịp thời khi có biến động, có thời kỳ lỗ 2.500 đồng đến 3.000 đồng/lít, làm cho các DN lỗ nặng. Qua các lần điều chỉnh tăng, giảm giá cho thấy việc điều hành giá không đúng với diễn biến của thị trường thế giới khi có biến động phức tạp. Có thời kỳ do việc kìm giá quá lâu dẫn đến hệ lụy chỉ trong tháng 3-2011 phải tăng đột biến hai lần liên tiếp với mức tăng cao từ hai nghìn đồng đến 3.500 đồng/lít xăng, dầu, tạo ra một cú sốc lớn cho người tiêu dùng và xã hội, vấn đề này đã được dần khắc phục trong những tháng vừa qua.
Cũng theo Nghị định 84/2009/NĐ-CP, thương nhân đầu mối được quyền quyết định giá bán lẻ nhưng thực tế cho thấy từ khi có nghị định các DN được quyết định giá trong hai tháng (tháng 1 và 2-2010) nhưng việc quyết định chỉ do một vài DN chứ không phải DN nào cũng quyết định được và các DN khác thực hiện theo.
Khi giá thế giới tăng cao DN lỗ, chưa được điều chỉnh giá kịp thời, DN hạn chế nhập khẩu, giảm hoa hồng xuống mức thấp nhất để giảm lỗ, các đại lý có điều kiện về tài chính bán hàng cầm chừng hoặc găm hàng để chờ tăng giá, các đại lý điều kiện tài chính kém chỉ cầm cự được một thời gian ngắn và không thể chấp nhận việc càng bán càng lỗ, vốn kinh doanh cạn dần và đóng cửa hàng, tạo ra tâm lý căng thẳng thiếu nguồn cung cục bộ, làm cho người tiêu dùng vất vả, xếp hàng nhưng không mua được, người bán hàng sợ khách hàng đến mua hàng của mình.
Khi giá thế giới xuống thấp, DN nhập khẩu bắt đầu có lãi, nhiều khi chưa bù đủ phần lỗ, trước sức ép của dư luận, liên bộ thường chỉ đạo điều chỉnh giảm giá ngay. Một số DN có lợi thế hoặc khi mua hàng may mắn đúng vào thời điểm giá thế giới thấp không tự giác đăng ký giảm giá bán ở hệ thống cửa hàng của mình lại tăng chi phí hoa hồng cao từ 500 đồng đến 600 đồng/lít, thậm chí có thời điểm 800 đồng đến 900 đồng/lít, điều này dẫn đến thị trường hỗn độn, các đại lý, tổng đại lý không chấp hành đúng tinh thần nghị định, dẫn tới nhiều đại lý, tổng đại lý lựa chọn mua hàng của đầu mối có mức chi phí hoa hồng cao hơn, DN có lợi thế thì tiêu thụ mạnh, còn DN không có lợi thế không bán được hàng. Tổng đại lý được hưởng lợi lớn trong khi người dân vẫn phải mua theo đúng giá quy định, DN thất thu và nguồn thu của Nhà nước từ thuế thu nhập DN bị giảm.
Có những thời điểm chính sách điều hành giá bán thấp hơn giá vốn và thấp hơn giá của các nước trong khu vực dẫn đến việc xuất lậu ra nước ngoài gây tổn hại không đánh giá được. Mặt khác, việc Nhà nước giữ giá ổn định trong một thời gian quá dài, thoát ly giá thế giới, đã tạo sức ỳ và tâm lý phản ứng thái quá của người tiêu dùng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các DN xăng dầu. Việc các cơ sở kinh doanh xăng, dầu công bố bản tính giá cơ sở theo Nghị định số 84/2009/NĐ-CP chưa được các cơ quan chức năng kiểm chứng, đánh giá tính xác thực bởi nhiều lý do. Một trong những lý do chính là do tính phức tạp của quá trình hạch toán, kinh doanh của xăng, dầu, đồng thời do hạn chế về nghiệp vụ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý của các cơ quan chức năng. Đây mới chỉ là thông tin một chiều từ phía DN kinh doanh xăng, dầu, sự nghi ngờ của người tiêu dùng đối với các thông tin công bố của các DN xăng, dầu là có cơ sở. Theo ý kiến của người tiêu dùng, cái quan trọng là phải kiểm tra được sự minh bạch, hợp lý từng yếu tố trong cơ cấu tính giá cơ sở của đơn vị cung ứng xăng, dầu trong cơ cấu mỗi lít xăng, dầu. Đây là căn cứ để xem xét giá bán đã hợp lý hay chưa.
Kiến nghị giải pháp điều hành
Để giá bán lẻ xăng, dầu ở Việt Nam vận hành đúng quy luật của cơ chế thị trường, theo chúng tôi cần xem xét, xử lý và có giải pháp khắc phục một số vấn đề sau:
1 – Về phương thức quản lý, điều hành giá phải tuân thủ theo đúng cơ chế quản lý giá của nền kinh tế thị trường. Theo nguyên tắc quản lý giá, đối với DN kinh doanh những sản phẩm độc quyền, thì giá cả phải do Nhà nước định giá. Căn cứ để xác định DN kinh doanh độc quyền Luật Cạnh tranh đã quy định: sản phẩm của một DN kinh doanh có thị phần chiếm 30% đó là DN độc quyền.
Trong Pháp lệnh giá 2002, tại Điều 7 đã chỉ rõ: Đối với hàng hóa, dịch vụ độc quyền do Nhà nước định giá, tùy theo mức độ độc quyền mà Nhà nước có các hình thức định giá khác nhau.
Nghị quyết lần thứ ba BCH T.Ư Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp,
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN cũng chỉ rõ: Đối với DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định kiểm soát
giá và điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số DNNN cùng cạnh tranh bình đẳng.
Dựa trên kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thế giới, căn cứ vào tình hình thực tiễn ở nước ta cần thiết thực hiện những biện pháp sau để kiểm soát giá sản phẩm độc quyền.
Trước mắt, cần nhanh chóng chấm dứt việc giao quyền tự định giá cho các DN độc quyền hoặc ngành độc quyền, căn cứ vào tính độc quyền của sản phẩm. Nhanh chóng rà soát và xác định các loại sản phẩm, dịch vụ độc quyền trong nền kinh tế quốc dân để làm căn cứ xác định đối tượng chịu sự điều chỉnh của chính sách định giá sản phẩm độc quyền. Ban hành và thực hiện nghiêm ngặt chính sách và tăng cường kiểm soát giá cả sản phẩm độc quyền (bao gồm cả giá bán và giá mua).
Theo Bộ Công thương, Tổng công ty Dầu Việt Nam (PVOil) hiện chiếm gần 30%, Saigon Petro chiếm 8%, còn Petrolimex chiếm khoảng 55% thị phần xăng, dầu cả nước. Với tỷ trọng 55% bán trên thị trường cả nước, ở các vùng có cạnh tranh cao như Hà Nội hoặc TP Hồ Chí Minh thì thị phần của Petrolimex chỉ chiếm trên dưới 40%, nhưng ở các vùng như Sơn La, Lai Châu, Tây Nguyên thì có nơi thị phần của Petrolimex gần như 100%. Xuất phát từ thị trường kinh doanh xăng, dầu vẫn còn tình trạng độc quyền. Nguồn xăng, dầu tiêu thụ trong nước phụ thuộc chủ yếu là nguồn nhập khẩu, quản lý điều hành giá xăng, dầu nội địa càng phải phù hợp với sự vận động của giá thị trường xăng, dầu thế giới.
Do vậy, Nhà nước cần định “giá trần”, làm căn cứ cho các DN kinh doanh xăng, dầu thực hiện. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi cơ quan quản lý giá của Nhà nước phải có đội ngũ cán bộ có trình độ giỏi về nghiệp vụ kinh doanh xăng, dầu, về hạch toán kế toán, luôn theo dõi sát diễn biến giá xăng, dầu thế giới, có khả năng phân tích và dự báo ngắn, trung và dài hạn giá xăng, dầu thế giới. Nhà nước có biện pháp loại trừ khả năng nảy sinh quan hệ tiêu cực giữa DN độc quyền và cơ quan chịu trách nhiệm trong việc định giá. Những tranh luận liên quan đến giá xăng, dầu hiện nay chỉ chấm dứt khi cơ chế quản lý điều hành giá xăng, dầu tuân thủ theo nguyên tắc cơ bản quản lý giá của cơ chế thị trường.
2 – Xây dựng đề án tạo sự cạnh tranh thật sự trên thị trường kinh doanh xăng, dầu ở nước ta, bằng cách tổ chức lại các DN đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng, dầu, để tạo ra các DN có năng lực, xóa dần sự khác biệt về lợi thế hạ tầng kỹ thuật, vị trí kho, cảng và thị phần như hiện nay. Đây là điều kiện tiên quyết để có một thị trường xăng, dầu cạnh tranh thật sự ở nước ta. Đẩy mạnh tiến trình cổ phẩn hóa DN thu hút vốn, tăng khả năng cạnh tranh,
tiến tới hình thành tập đoàn kinh tế đa sở hữu trong lĩnh vực kinh doanh xăng, dầu.
3 – Cần có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên, chặt chẽ hoạt động của các DN kinh doanh xăng, dầu. Đặc biệt là kiểm tra chi phí của các yếu tố cấu thành nên giá cơ sở, như giá nhập khẩu, chi phí kinh doanh, định mức kinh tế kỹ thuật, đặc biệt là định mức hao hụt.
4 – Điều hành giá xăng, dầu trong bối cảnh giá xăng, dầu thế giới luôn biến động phức tạp, trong từng thời kỳ cơ quan quản lý cần điều tiết linh hoạt, kịp thời các khoản thuế, phí, các khoản phải nộp khác… để giảm áp lực tăng giá bán, thực hiện các mục tiêu lớn trong mỗi thời kỳ, như kiềm chế lạm phát, nâng cao khả năng cạnh tranh của DN, khoan sức dân… Việc điều tiết cần được hình thành bằng một hệ thống chính sách và công cụ kinh tế để phát huy vai trò quản lý của Nhà nước và vai trò tự chủ kinh doanh của các DN, Nhà nước chỉ điều chỉnh ở thời điểm cần thiết.
5 – Trong nền kinh tế thị trường hoạt động kinh doanh xăng, dầu luôn biến động và tiềm ẩn nhiều rủi ro, xây dựng Quỹ BOG xăng, dầu là cần thiết. Song, việc hình thành nguồn Quỹ BOG này cần xem xét và nghiên cứu lại. Theo chúng tôi, nguồn hình thành quỹ không chỉ lấy từ người tiêu dùng thông qua việc trích nộp lại trong giá bán, mà còn phải lấy từ một tỷ lệ nhất định trong lợi nhuận của DN kinh doanh xăng, dầu, vì DN cũng là người thụ hưởng lợi ích trong quá trình kinh doanh xăng, dầu phải có sự đóng góp. Cần có sự kiểm tra quản lý, sử dụng quỹ này một cách chặt chẽ đi đôi với biện pháp sử dụng nguồn quỹ có hiệu quả, chỉ thực hiện khi giá xăng, dầu thế giới xuống thấp hoặc ở mức trung bình. Trong thời kỳ giá thế giới tăng cao không nên thu vào quỹ này.
6 – Cần thành lập một bộ phận có năng lực đủ tin cậy theo dõi sát sao diễn biến giá xăng, dầu thế giới, phân tích, dự báo ngắn, trung và dài hạn giá xăng, dầu thế giới để phục vụ cho việc điều hành giá xăng, dầu của Nhà nước.
Kinh nghiệm xây dựng cơ chế quản lý điều hành giá xăng, dầu theo cơ chế thị trường ở nước ta còn chưa nhiều, do vậy việc hợp tác, học tập kinh nghiệm của các nước, nhất là những nước có nền kinh tế tương đồng là cần thiết, để tránh những tổn thất không đáng có trong quá trình điều hành.
Theo Nhandan
Ý kiến ()