Binh pháp Hồ Chí Minh về kết hợp đánh với đàm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Một ngày sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, khi làm việc với đồng chí Tố Hữu về công tác tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Chiến thắng Pháp rồi, phải nhớ trước mặt ta còn có kẻ địch hùng mạnh hơn, hung ác hơn, đó là đế quốc Mỹ”.
Tầm nhìn trong lựa chọn và bố trí cán bộ chiến lược
Với tầm nhìn chiến lược sắc sảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo: “Đối với Mỹ, ta có cách chủ động để đi tới cho nó rút ra, vì rất phức tạp. Một tay đánh, một tay mở cho nó ra, trước cửa cần có rèm chống”. Sau khi có quyết sách chiến lược, để kết hợp đánh với đàm, Bác Hồ đã cùng Bộ Chính trị đi trước một bước trong lựa chọn và bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở chiến trường và mặt trận ngoại giao sau này.
Một là, 3 tháng sau khi có Nghị quyết Trung ương 15 khóa II, ngày 31-8-1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký quyết định phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Ngay sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ (8-1964), ngày 25 và 26-9-1964, Bác Hồ đã chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị bàn về cách mạng miền Nam và chỉ đạo: “Miền Nam phải… xây dựng chủ lực thành quả đấm mạnh, gọn, nhanh. Hai năm qua chưa tăng cường Ủy viên Bộ Chính trị cho miền Nam, nay tình hình cấp bách không đi không được”. Tháng 10-1964, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được cử vào làm Bí thư Trung ương Cục miền Nam và Chính ủy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Vào chiến trường lần này còn có một số cán bộ cao cấp Quân đội có quyết tâm chiến lược và kinh nghiệm chỉ huy là các đồng chí: Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hòa, Hoàng Cầm, Trần Văn Phác… Đoàn cán bộ chiến lược đã kịp thời tới chiến trường trước khi Mỹ đưa quân vào Đà Nẵng ngày 8-3-1965.
Hai là, năm 1962, đồng chí Nguyễn Thị Bình được điều trở lại miền Nam giữ chức vụ Ủy viên Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia các hoạt động đối ngoại và tới năm 1969 là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở Hội nghị Paris. Tháng 4-1963, đồng chí Xuân Thủy được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (tới tháng 3-1965) và từ năm 1968 là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại cuộc đàm phán ở Paris. Đồng chí Phùng Thế Tài được cử giữ chức Tư lệnh Bộ tư lệnh Phòng không năm 1962 và Tư lệnh đầu tiên của Bộ tư lệnh Phòng không-Không quân (PK-KQ) mới được thành lập năm 1963.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trung đoàn 921 ngày 9-11-1964. Ảnh: TTXVN |
Ba là, ngày 1-4-1965, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã được cử kiêm chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và từ năm 1968 là Thường trực của “Tiểu ban Việt Nam-CP.50” do Bộ Chính trị quyết định thành lập và trực tiếp lãnh đạo. CP.50 làm công tác nghiên cứu các phương án đấu tranh giúp Bộ Chính trị chỉ đạo đàm phán.
Bốn là, tháng 8-1965, nhận lời mời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Lê Đức Thọ đã được cử dẫn đầu đoàn đại biểu sang thăm Pháp. Trong đoàn có các đồng chí: Lưu Văn Lợi và Mai Văn Bộ sau này tham gia hai đoàn đàm phán của ta ở Paris. Mục đích chuyến thăm của đoàn là vận động dư luận Pháp và dư luận quốc tế lên án Mỹ xâm lược và ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ, cứu nước. Một sự trùng hợp, đồng chí Lê Đức Thọ và hai đồng chí Lưu Văn Lợi, Mai Văn Bộ đã được tới Paris “tiền trạm” trước khi ta mở mặt trận ngoại giao. Đối ngoại Đảng đã đi trước một bước. Tháng 2-1968, đồng chí Lê Đức Thọ được cử vào làm Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam (đồng chí đã làm Bí thư Trung ương Cục miền Nam từ 1952-1954). Tháng 5-1968, Bác Hồ đã viết thư đề nghị Bộ Chính trị điều đồng chí Lê Đức Thọ ra Hà Nội và cuối tháng 6 sang Paris làm Cố vấn đặc biệt của Đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đồng chí Lê Đức Thọ “là đại diện toàn quyền của lãnh đạo Việt Nam đối với tất cả các cơ quan và các phái đoàn chính thức của ta, cũng như các tổ chức thuộc lực lượng kháng chiến hai miền Nam-Bắc Việt Nam tham gia đấu tranh ngoại giao tại Paris”.
Mở đầu cài thế chiến lược đánh và đàm
“Lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy bắt đầu từ đó”. Nhìn lại các dấu mốc thời gian lịch sử kháng chiến, có thể nhận diện được thiết kế chiến lược-“Binh pháp Hồ Chí Minh” mở các mặt trận liên hoàn trong triển khai chiến lược kết hợp đánh và đàm của một nước nhỏ tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống lại một đế quốc xâm lược hùng mạnh nhất thế giới trong cục diện Chiến tranh Lạnh đối đầu Mỹ-Xô và từ năm 1972 xuất hiện tam giác chiến lược Mỹ-Xô-Trung.
Thứ nhất, “mở mặt trận trên không” trước ở miền Bắc.
Sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 5-8-1964, ngày 9-11-1964, Bác Hồ tới thăm Trung đoàn Không quân tiêm kích 921 mới được thành lập. Người căn dặn: “Tổ tiên ta ngày xưa đã có những chiến công oanh liệt trên sông, trên biển như Bạch Đằng, Hàm Tử; trên bộ như Chi Lăng, Vạn Kiếp, Đống Đa. Ngày nay, chúng ta phải mở mặt trận trên không thắng lợi. Trách nhiệm ấy trước hết là của các chú”.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu, Tư lệnh Quân chủng PK-KQ Phùng Thế Tài đã trực tiếp cùng Đảng ủy Quân chủng, Đảng ủy, chỉ huy Trung đoàn 921 khẩn trương nghiên cứu các phương án tác chiến và cách đánh để hoàn thành trách nhiệm lịch sử mà Bác Hồ đã giao phó. Trong trận chiến đầu tiên ngày 3-4-1965, Không quân ta đã bắn rơi tại chỗ 2 máy bay F-8 của Hải quân Mỹ. Ngày 4-4-1965, Không quân ta tiếp tục bắn rơi tại chỗ 2 “Thần sấm” F-105 Mỹ.
Ngày 19-7-1965, trong chuyến thăm đơn vị súng máy tự hành thuộc Trung đoàn Pháo Phòng không 234 tại sân bay Bạch Mai, trước ngày đơn vị lên đường chiến đấu bảo vệ các đơn vị tên lửa phòng không lần đầu xuất trận, Bác Hồ khẳng định: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B-57, B-52, hay “bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng”. Như vậy, theo chỉ đạo của Bác Hồ, “mặt trận trên không” đã được triển khai trước ở miền Bắc và giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược ngay sau khi Mỹ đưa quân vào miền Nam (3-1965).
Thứ hai, mở mặt trận đánh Mỹ ở miền Nam- “nắm thắt lưng địch mà đánh”.
Trước khi Mỹ đưa quân vào miền Nam (3-1965), Hội nghị lần thứ ba Trung ương Cục miền Nam tháng 1-1965 dưới sự chủ trì của Bí thư Nguyễn Chí Thanh đã dự báo đúng tình hình, khẳng định lập trường tư tưởng và xác định quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược mà Bác Hồ đã căn dặn: “Cần chuẩn bị tư tưởng thật vững vàng trong tình thế quyết thắng giặc Mỹ. Chống các loại tư tưởng ngán Mỹ, sợ Mỹ và sợ lâu dài ác liệt, ảo tưởng hòa bình”.
Thứ ba, “Hội nghị Diên Hồng” quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược
Những chiến thắng giặc Mỹ xâm lược ở “mặt trận trên không” tại miền Bắc và ở chiến trường miền Nam trong năm 1965 là cơ sở thực tiễn quyết định để Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 12 khóa III từ ngày 21 đến 27-12-1965 thông qua chủ trương, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong phiên họp bế mạc hội nghị, Bác Hồ đã khẳng định: “…Qua những ý kiến của các đồng chí đã phát biểu ở hội nghị, thấy nổi bật hai điểm quan trọng: Ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; Ta nhất định thắng”.
Thứ tư, mở mặt trận ngoại giao
Những thắng lợi to lớn tiếp theo ở chiến trường miền Nam và trên “mặt trận trên không” ở miền Bắc trong năm 1966 là căn cứ thực tiễn xác thực để Hội nghị Trung ương 13 tháng 1-1967 ra Nghị quyết “Về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”. Nhưng để mở mặt trận ngoại giao thì cần phải có thực lực đủ mạnh. Đáp lại thông điệp thương lượng “kẻ cả” của Mỹ, trong “Thư trả lời Tổng thống Mỹ Johnson” đăng trên Báo Nhân Dân ngày 22-3-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân Việt Nam quyết không khuất phục trước vũ lực và quyết không nói chuyện trước sự đe dọa của bom đạn”.
Thứ năm, ngoại giao thực lực-“Chiêng có to, tiếng mới lớn”.
Để tạo thực lực cho ngoại giao, Người cùng Bộ Chính trị xúc tiến kế hoạch mở một cuộc tiến công chiến lược ở chiến trường miền Nam nhằm “giáng cho chúng những đòn tiến công sấm sét làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh”. Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị đã họp ra Nghị quyết về “Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam”, quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Trong cuộc họp lịch sử này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho chỉ huy các chiến trường: “Kế hoạch phải thật tỉ mỉ; hợp đồng phải thật ăn khớp; bí mật phải thật tuyệt đối; hành động phải thật kiên quyết; cán bộ phải thật gương mẫu”. Nghị quyết này của Bộ Chính trị sau đó được Hội nghị Trung ương 14 thông qua thành nghị quyết của hội nghị.
Thứ sáu, đánh để buộc Mỹ phải chấp nhận đàm phán vô điều kiện
Thắng lợi to lớn của đợt 1 Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 đã đánh nhụt ý chí xâm lược của Mỹ, làm đảo lộn thế chiến lược của chúng trên chiến trường. Đêm 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Johnson đã buộc phải đơn phương tuyên bố Mỹ sẽ chấm dứt vai trò chiến đấu trực tiếp của quân đội Mỹ trên chiến trường miền Nam, trao trách nhiệm cho quân ngụy, ngừng mọi hành động không quân và hải quân chống Việt Nam Dân chủ cộng hòa, chấm dứt ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và sẵn sàng cử đại diện đàm phán với phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Đợt 2 được bắt đầu vào đêm 4 rạng sáng 5-5-1968 và 8 ngày sau, ngày 13-5-1968, phiên họp công khai đầu tiên giữa đoàn Mỹ với đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã được khai mạc tại Hội trường Kléber, Paris.
Trong thư “Gửi chú Ba Duẩn” ngày 10-3-1968 từ Bắc Kinh, Bác Hồ đã đề nghị tổ chức chuyến thăm miền Nam: “Thăm khi anh em trỏng đang chuẩn bị mở màn thứ ba. Đi thăm đúng lúc đó mới có tác dụng khuyến khích thêm anh em…”. Như vậy “màn thứ ba” đã được Người dự liệu từ trước và đợt 3 của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân mở màn ngày 17-8-1968. Bốn ngày sau khi ta mở “màn thứ ba”-ngày 21-8-1968, tại Paris phía Mỹ đã ngỏ ý tiếp xúc cấp cao. Ta chấp nhận. Tới thời điểm này, hai bên đã có 18 phiên họp công khai và 4 cuộc tiếp xúc riêng cấp phó đoàn. Từ đây, đàm phán ở Paris bước vào giai đoạn mới.
https://www.qdnd.vn/quoc-te/binh-luan/binh-phap-ho-chi-minh-ve-ket-hop-danh-voi-dam-trong-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-717034
Ý kiến ()