Bảo vệ quyền lợi của người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
Kể từ khi có Luật số 72, số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài hàng năm tăng đáng kể, trung bình mỗi năm có hơn 80.000 người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Dự án Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) được đưa vào chương trình nghị sự tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV.
Tinh thần của Dự án Luật là nhằm đáp ứng, giải quyết những vấn đề mới phát sinh về lao động, nhất là từ các vướng mắc, bất cập qua thực tiễn thi hành sau gần 13 năm áp dụng trên thực tế; điều chỉnh những vấn đề mới từ thực tế hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư và quản lý vấn đề di cư, dịch chuyển lao động quốc tế, phát triển việc làm ngoài nước và bảo hộ quyền làm việc của công dân…
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý
Dự thảo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) đã được tiếp thu, chỉnh lý, trình xin ý kiến Quốc hội tại kỳ họp lần này gồm 8 chương, 79 Điều (giảm 1 điều so với Luật hiện hành; bãi bỏ 8 Điều; bổ sung mới 9 Điều và sửa đổi, bổ sung khoảng 70 Điều của Luật hiện hành).
Luật quy định chính sách về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người lao động, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước; quản lý nhà nước và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Đối tượng áp dụng là doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
So với Luật số 72 hiện hành, dự thảo Luật có những sửa đổi, bổ sung cơ bản theo 6 nhóm chính sách, gồm: Nhóm nội dung về sửa đổi, bổ sung các loại hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài; nhóm nội dung về minh bạch hóa quy định và nâng cao điều kiện đầu tư kinh doanh đối với ngành nghề hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; nhóm nội dung về tuyển chọn, đào tạo lao động và chuẩn hóa nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; nhóm nội dung liên quan đến chi phí đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài, phù hợp với thực tế thị trường, xu hướng quốc tế, bảo đảm trách nhiệm của doanh nghiệp với người lao động; nhóm nội dung liên quan đến các quy định về hình thức tổ chức và mở rộng phạm vi hỗ trợ của quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước; nhóm nội dung liên quan đến quy định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Ngoài ra, dự thảo Luật cũng bổ sung các quy định liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa dữ liệu về lao động di cư trong quản lý nhà nước, cải cách thủ tục hành chính mà qua công tác quản lý nhà nước đã thực hiện tốt trong thời gian qua.
Với các quy định này, dự thảo sẽ tạo hành lang pháp lý thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa dữ liệu hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu làm công cụ để theo dõi, thống kê, hỗ trợ, bảo vệ người lao động làm việc ở nước ngoài và kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ.
Theo Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, ngoài giải quyết 6 nhóm chính sách mà Chính phủ đã trình Quốc hội thì Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được sửa đổi còn đáp ứng các yêu cầu: Giải quyết các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn thi hành sau gần 13 năm áp dụng trên thực tế; đáp ứng các yêu cầu thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm sự đồng bộ của các luật mới ban hành trong thời gian gần đây; điều chỉnh những vấn đề mới từ thực tế hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư và quản lý vấn đề di cư, dịch chuyển lao động quốc tế, phát triển việc làm ngoài nước và bảo hộ quyền làm việc của công dân.
Đáp ứng những vấn đề mới phát sinh về lao động
Năm 2006, Quốc hội khóa XI đã ban hành Luật số 72/2006/QH11 về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Luật số 72) và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2007.
Kể từ khi có Luật số 72, số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài hàng năm tăng đáng kể, trung bình mỗi năm có hơn 80.000 người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Quang cảnh phiên họp Quốc hội chiều 9/6.
Đặc biệt trong 5 năm gần đây, mỗi năm có trên 130.000 người lao động ra nước ngoài làm việc, góp phần đáng kể nâng cao thu nhập, đời sống của người dân, cải thiện chất lượng nguồn lao động thông qua một bộ phận lao động tiếp cận với máy móc và công nghệ tiên tiến, cơ chế quản lý hiện đại, tác phong công nghiệp, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động.
Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập quốc tế và việc Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại thế hệ mới, sự hình thành khối cộng đồng kinh tế ASEAN cho phép tự do di chuyển trong khối ASEAN dẫn đến việc xuất hiện nhiều hình thức hợp tác, dịch chuyển lao động mới trong thời gian gần đây chưa được quy định trong Luật số 72, gây khó khăn trong việc hướng dẫn thi hành Luật và công tác quản lý Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Qua tổng kết thi hành Luật số 72 cũng cho thấy, một số quy định phát sinh các vướng mắc như: Điều kiện cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn chưa chặt chẽ, chưa phù hợp với hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; quy định về tiền môi giới, tiền dịch vụ, tiền ký quỹ của người lao động chưa phản ánh đúng bản chất và xu hướng chung của các tiêu chuẩn lao động quốc tế…
Một số quy định của Luật số 72 chưa đáp ứng được các yêu cầu mới về hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong bối cảnh kinh tế xã hội và quan hệ quốc tế mới.
Hơn nữa, tác động của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 và vấn đề số hóa đối với lao động di cư đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc đổi mới một cách căn bản phương thức quản lý hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nói riêng và quản lý vấn đề di cư, dịch chuyển lao động quốc tế vì mục đích lao động nói chung để phù hợp với những tiến bộ mới về khoa học công nghệ, phát triển việc làm ngoài nước và bảo hộ quyền làm việc của công dân.
Trước thực trạng đó, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, Chính phủ đã trình Dự thảo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Nguyễn Thúy Anh, Ủy ban cơ bản tán thành về sự cần thiết, mục tiêu và quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Luật.
Hồ sơ dự án Luật đã được chuẩn bị đầy đủ, có bổ sung, cập nhật một số thông tin, tài liệu theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ý kiến thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban về các vấn đề Xã hội, cơ bản đáp ứng yêu cầu theo quy định tại khoản 2, Điều 64 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung chưa bảo đảm tính thống nhất đồng bộ giữa Tờ trình với dự thảo Luật, dự thảo văn bản hướng dẫn thi hành; một số nội dung vẫn chưa có dự thảo văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.
Tại Phiên họp thứ 44 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đồng ý với sự cần thiết phải ban hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và nhấn mạnh, Luật ban hành đã 13 năm nay.
Trong thời gian này xã hội đã phát triển, có nhiều thay đổi, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bộ luật Lao động đã sửa đổi hai lần, Luật Dạy nghề chuyển thành Luật Giáo dục nghề nghiệp và nhiều luật khác có liên quan cũng đã được sửa đổi, bổ sung. Do vậy, cần thiết phải sửa đổi Luật như Tờ trình của Chính phủ.
Cách tiếp cận cũ của Luật là chỉ tập trung vào việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và có những quy định cho doanh nghiệp thực hiện các thủ tục đưa đi. Cần thay đổi, phải có thiết chế trong luật quy định các chính sách bảo vệ quyền lợi cho người lao động ra nước ngoài làm việc cũng như các chính sách khi người lao động trở về nước. Luật cũng phải minh bạch, bên cạnh việc tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc đưa người lao động ra nước ngoài làm việc thì cần phải xử lý nghiêm những hành động, hành vi trục lợi, bất chính, vô trách nhiệm, bỏ rơi người lao động – Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh./.
Theo Vietnamplus
Ý kiến ()