Áp dụng thành công kỹ thuật tiên tiến trong điều trị bỏng
Ðưa các kỹ thuật tiên tiến vào điều trị bỏng là yếu tố quyết định nhằm nâng cao chất lượng điều trị và cứu sống người bệnh. Thực tế thời gian qua, Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác triển khai và áp dụng thành công nhiều kỹ thuật tiên tiến trong điều trị bỏng, qua đó cứu sống hàng nghìn người bệnh, cũng như từng bước khẳng định vai trò, vị thế của chuyên ngành bỏng nước ta trên trường quốc tế.
Ðưa các kỹ thuật tiên tiến vào điều trị bỏng là yếu tố quyết định nhằm nâng cao chất lượng điều trị và cứu sống người bệnh. Thực tế thời gian qua, Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác triển khai và áp dụng thành công nhiều kỹ thuật tiên tiến trong điều trị bỏng, qua đó cứu sống hàng nghìn người bệnh, cũng như từng bước khẳng định vai trò, vị thế của chuyên ngành bỏng nước ta trên trường quốc tế.
Thống kê cho thấy, mỗi năm Viện Bỏng quốc gia tiếp nhận, điều trị cho hàng chục nghìn người bệnh trong và ngoài quân đội. Thành công nổi bật là điều trị hiệu quả cho những trường hợp bị bỏng hơn 90% diện tích cơ thể; bỏng sâu 55%; cứu sống bệnh nhi có diện tích bỏng chung đến 70% diện tích cơ thể và bỏng sâu đến 63% diện tích cơ thể. Các thầy thuốc của viện cũng cứu sống nhiều người bệnh có các biến chứng nặng như: nhiễm khuẩn huyết, suy thận cấp, bỏng hô hấp, bỏng có nhiều bệnh nội khoa nặng kết hợp… qua đó giảm tỷ lệ tử vong xuống còn 1,5%. Viện cũng thành công trong điều trị các vết thương mãn tính phức tạp, những trường hợp chấn thương mất da và phần mềm lớn, phức tạp (mỗi năm có khoảng 300 đến 350 người bệnh mất da, phần mềm phức tạp do chấn thương được chuyển về Viện Bỏng quốc gia); điều trị thành công nhiều bệnh có các vết thương, vết loét lâu liền, khó liền do tia xạ (điều trị ung thư), do đái đường, viêm tắc động mạch, liệt tuỷ, các vết thương do rắn cắn, các loét do sẹo cũ… Về điều trị phẫu thuật tạo hình, thẩm mỹ và phục hồi chức năng sau bỏng cũng được những dấu ấn đáng kể, đó là các thành công trong điều trị các trường hợp di chứng bỏng nặng phức tạp, lâu ngày, di chứng do chấn thương, dị tật bẩm sinh…
Ðể có được những kết quả đó là do thời gian qua Viện được đầu tư nhiều trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác chẩn đoán, điều trị bỏng như: Hệ thống các giường đệm khí; hệ thống điều trị bằng bức xạ nhiệt; hệ thống máy nội soi… Thông qua các trang thiết bị này, giúp cho việc chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời, nhất là các trường hợp bỏng đường hô hấp, cũng như thuận tiện cho việc chăm sóc và quá trình phục hồi của người bệnh nhanh hơn. Ðặc biệt, Viện áp dụng nhiều tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến phục vụ cứu, chữa cho người bệnh như: Kỹ thuật chẩn đoán độ sâu bỏng bằng thiết bị Laser dopler; Kỹ thuật siêu lọc máu trong điều trị nhiễm khuẩn, nhiễm độc bỏng, suy thận cấp trong bỏng; cắt bỏ hoại tử – ghép da ngay trong vòng 72 giờ đầu sau bỏng; ghép da mảnh lớn, mảnh siêu nhỏ, ghép hai lớp trong điều trị bỏng sâu diện rộng; nuôi cấy nguyên bào sợi, tạo tấm nguyên bào sợi, nuôi cấy tế bào sừng; sử dụng ô-xy cao áp điều trị hỗ trợ người bệnh bỏng và di chứng bỏng; Kỹ thuật căng giãn da, vạt da siêu mỏng và vi phẫu thuật trong phẫu thuật tạo hình và thẩm mỹ điều trị bệnh nhân di chứng bỏng… Ðáng chú ý, không chỉ ứng dụng các kỹ thuật hiện đại, Viện Bỏng quốc gia còn phát huy thế mạnh của mình, đó là sử dụng các loại thuốc y học cổ truyền trong điều trị vết thương bỏng. Hiện tại khoảng 70% số người bệnh điều trị tại viện sử dụng các thuốc y học cổ truyền do Học viện Quân y và viện nghiên cứu, sản xuất.
Một trong những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực điều trị di chứng bỏng mà các thầy thuốc của Viện có được là tái tạo thành công toàn bộ khuôn mặt cho người bệnh bằng kỹ thuật vi phẫu ghép vạt da tự thân. Ðó là trường hợp người bệnh N.T.T (Thanh Hóa) bị biến dạng hoàn toàn do bỏng a-xít. PGS.TS Vũ Quang Vinh, Phó Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật tạo hình – Thẩm mỹ, người trực tiếp thực hiện quá trình phẫu thuật cho biết: Hiện nay, trên thế giới để điều trị cho người bệnh bị biến dạng toàn bộ khuôn mặt thường sử dụng hai phương pháp: ghép mặt đồng loại (ở nước ta chưa thực hiện được) và ghép vạt da tự thân. Nếu như phương pháp ghép mặt đồng loại là lấy da tử thi để ghép, về cơ bản phương pháp này dễ bị biến chứng, gặp nhiều khó khăn từ việc tìm xác hiến phù hợp; phải dùng thuốc ức chế miễn dịch nếu không sẽ bị thải loại và người được ghép phải sống trong điều kiện bảo vệ nghiêm ngặt, dễ nhiễm khuẩn, khuôn mặt rất dễ có biến dạng. Cho nên phương pháp vạt da tự thân có ưu điểm hơn do không cần phải làm các xét nghiệm và tìm nguồn hiến… Với thành công đó, cụm công trình “Ứng dụng kỹ thuật vi phẫu trong điều trị bỏng sâu và di chứng bỏng” được bình chọn là một trong 26 thành tựu y học Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Thiếu tướng, GS, TS Lê Năm, Viện trưởng Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác cho rằng, với những thành công trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến về điều trị bỏng mang lại, Viện luôn là lá cờ đầu trong chuyên ngành bỏng, là đơn vị đầu ngành trong việc cấp cứu, thu dung, điều trị người bệnh bỏng ở Việt Nam. Tiếp nối thành công đó, Viện phối hợp Hội Bỏng Việt Nam tổ chức Hội nghị khoa học Bỏng châu Á – Thái Bình Dương lần thứ chín. Ðây là cơ hội để giao lưu, trao đổi, cập nhật kiến thức và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà khoa học Việt Nam và quốc tế. Ðồng thời, thông qua Hội nghị để giới thiệu những thành tựu khoa học, kỹ thuật của chuyên ngành bỏng nước ta với các nhà khoa học các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nhandan
Ý kiến ()