75 nghìn tỷ đầu tư cho Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2021-2025
Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và xã hội Đào Ngọc Dung. Ảnh: VGP/Lê Sơn. |
Nhiều thành tựu nổi bật trong công tác giảm nghèo
Theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, thực hiện Nghị quyết số 100/2015/QH13 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư các CTMTQG giai đoạn 2016-2020 và Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt CTMTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương tổ chức thực hiện Chương trình hiệu quả, đạt được nhiều thành tựu nổi bật, hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ đề ra.
Theo đó, tỉ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% năm 2015 (năm đầu kỳ) xuống còn 2,75% năm 2020 (năm cuối kỳ), trung bình giảm 1,43%/năm (chỉ tiêu: 1-1,5%/năm), tỉ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 4%/năm (chỉ tiêu: 3-4%), có hơn 8 triệu người thoát nghèo, cận nghèo; tỉ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo cuối năm 2020 còn 23,42%, trung bình giảm 5,4%/năm (chỉ tiêu: 4%/năm); có 32 huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, 125 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo đạt chuẩn nông thôn mới; có nhiều tấm gương điển hình nỗ lực vươn lên thoát nghèo.
Việt Nam lần đầu tiên và là 1 trong 30 quốc gia áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu gắn với mục tiêu phát triển bền vững; đã hoàn thành sớm Mục tiêu Thiên niên kỷ của LHQ về xoá đói, giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới. Kết quả trên có ý nghĩa rất to lớn, khẳng định quyết tâm cao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và toàn dân ta trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo, thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Chương trình tập trung giải quyết một số nội dung phát triển kinh tế-xã hội cấp bách, cần vốn đầu tư công của quốc gia nhằm tiếp tục giải quyết các vấn đề mà chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 chưa thực hiện xong.
Cụ thể, vẫn còn nhiều huyện nghèo, xã vùng bãi ngang ven biển và hải đảo chưa thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Các địa phương này là vùng “lõi nghèo”, có địa hình hiểm trở, kinh tế-xã hội và cơ sở hạ tầng còn khó khăn, có tỉ lệ hộ nghèo cao, một số nơi có tỉ lệ hộ nghèo còn trên 40% như huyện Mường Nhé (Điện Biên) là 59,97%, huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) là 42,21%, huyện Đồng Văn (Hà Giang) là 41,96%. Kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững tại một số địa phương; tỉ lệ tái nghèo, tỉ lệ hộ nghèo phát sinh còn cao do thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, ốm đau.
Phần lớn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo sinh sống ở vùng nông thôn, có sinh kế, thu nhập không bền vững, thiếu kỹ năng nghề nghiệp, chất lượng nguồn nhân lực thấp, khó tiếp cận và cạnh tranh trên thị trường lao động, việc làm. Hiệu quả giải quyết vấn đề thiếu đất sản xuất, nhà ở, giảm nghèo về thông tin, cải thiện dinh dưỡng cho người nghèo còn hạn chế.
Giải quyết một số vấn đề mới, cấp bách trong phát triển KT-XH
Báo cáo của Chính phủ nêu rõ thực hiện Chương trình này gắn liền với việc giải quyết một số nội dung phát triển kinh tế – xã hội mới, cấp bách, cần đầu tư công của quốc gia. Bởi theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2022-2025, ước tính tại thời điểm tháng 1/2022, cả nước có khoảng 4,473 triệu hộ (khoảng 17,447 triệu người) có thu nhập dưới mức sống tối thiểu; tỉ lệ hộ nghèo là 10,83%, tỉ lệ hộ cận nghèo là 5,77%. Mức sống tối thiểu của người dân tăng lên theo sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nên chuẩn nghèo thay đổi, làm tăng tỷ lệ hộ nghèo cận nghèo đầu kỳ. Do vậy, để thực hiện mục tiêu giảm tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo, đòi hỏi phải có nguồn lực lớn để tập trung giải quyết.
Vì vậy, việc xây dựng chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 là giải pháp quan trọng nhất, quyết định việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ về giảm nghèo đã được đề ra trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Theo đó, Chính phủ xác định các nội dung chủ yếu của Chương trình là thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản (việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin), nâng cao chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Chú trọng đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội; đa dạng hóa sinh kế, phát triển sản xuất, giáo dục nghề nghiệp, tạo việc làm, thu nhập tốt cho người nghèo, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững.
Mục tiêu cụ thể của Chương trình là góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo cả nước bình quân từ 1-1,5%/năm; tỉ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4-5%/năm; tỉ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm hơn 3%/năm theo chuẩn nghèo đa chiều của quốc gia. Phấn đấu giảm 1/2 số hộ nghèo, hộ cận nghèo so với đầu kỳ; 30% số huyện nghèo, 30% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.
Phấn đấu tỉ lệ người lao động thuộc vùng nghèo, vùng khó khăn qua đào tạo đạt 60%, tỉ lệ người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo có nhu cầu, được hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề phù hợp đạt 100%. Phấn đấu hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo có ít nhất một thành viên trong độ tuổi lao động có việc làm bền vững.
Chương trình cùng với hệ thống chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội góp phần giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin).
75.000 tỷ đồng thực hiện Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2021-2025
Chương trình gồm 6 dự án và 11 tiểu dự án với tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2021-2025 là 75.000 tỷ đồng. Trong đó, ngân sách Trung ương 48.000 tỷ đồng (vốn đầu tư tối thiểu 20.000 tỷ đồng, vốn sự nghiệp 28.000 tỷ đồng); ngân sách địa phương 12.690 tỷ đồng (vốn đầu tư 2.200 tỷ đồng, vốn sự nghiệp: 10.490 tỷ đồng); huy động hợp pháp khác: 14.310 tỷ đồng (vốn đầu tư 2.600 tỷ đồng, vốn sự nghiệp 11.710 tỷ đồng).
Đối tượng thụ hưởng của Chương trình là hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo trên phạm vi cả nước; chú trọng hỗ trợ trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ và người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo. Người dân sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.
Các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trung tâm dịch vụ việc làm vùng nghèo, vùng khó khăn và các tổ chức, cá nhân liên quan.
Chương trình thực hiện trên phạm vi cả nước, tập trung đầu tư cho các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; khuyến khích các địa phương vận dụng các cơ chế, chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội đặc thù áp dụng cho các đối tượng trên địa bàn bằng nguồn lực của địa phương và huy động hợp pháp khác.
Ý kiến ()